Vi Huyền Đắc- nhà soạn kịch nổi tiếng
Vi Huyền Đắc sinh ngày 18-12-1899 tại Trà Cổ,
tỉnh Quảng Ninh, mất năm 1976 tại Hà Nội. Ông có khoảng thời gian dài
sinh sống, lập nghiệp và đã thành danh tại đất Cảng Hải Phòng. Theo nhà
nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan, trong khoảng 20 vở kịch của mình, Vi
Huyền Đắc chỉ thật sự nổi tiếng khi ra mắt vở Kim tiền và Ông Ký Cóp,
được công diễn lần đầu ở Nhà hát Tây Hải Phòng (nay là Nhà hát thành
phố).
Vi Huyền Đắc còn có bút danh là Giới Chi. Cụ thân sinh ra ông là Vi
Hồi Ngọ, làm thầu khoán, mộ phu làm đường, làm mỏ và có một đội thuyền
vận tải riêng hoạt động ở vùng Đông Bắc Bắc Bộ. Mẹ là con gái Tiến sĩ
Hán học Nguyễn Tư Giản, Thượng thư Bộ Lại triều Tự Đức (1823 -1890).
Thuở nhỏ Vi Huyền Đắc học chữ Hán, sau đó chuyển sang theo tân học. Tốt
nghiệp Thành Chung ở Hải Phòng, ông thi vào trường Mỹ nghệ Hà Nội nhưng
sau đấy lại vào Sài Gòn làm lái xe và bắt đầu viết một số bài báo có xu
hướng tiến bộ. Cha mất, Vi Huyền Đắc trở ra Hải Phòng kế thừa cơ nghiệp
để lại. Ông bắt đầu viết văn và mở nhà in Thái Dương văn khố trên phố
Cầu Đất để xuất bản tác phẩm của mình và bạn bè. Có lẽ ông không có khả
năng kinh doanh như người cha và cũng có thể do ông say mê văn chương
hơn nên phải bán dần tài sản để sinh sống. Tuy nhiên công việc và hình
ảnh của người cha và phần nào của chính mình sau khi được kế thừa tài
sản cũng như sự lụn bại về kinh tế đã cung cấp cho Vi Huyền Đắc những
chất liệu sống sinh động trong sáng tác.
Vốn ham văn chương, Vi Huyền Đắc lại có nhiều điều kiện tiếp xúc
với thợ thuyền lam lũ vất vả, ông hiểu sâu thêm các ngón bóc lột của
giới chủ. Ông viết kịch, đề cao người lương thiện, tình chung thủy; quan
điểm xã hội tiến bộ và lòng yêu tự do, chống lễ giáo phong kiến của Vi
Huyền Đắc ngày càng rõ nét. Trong khoảng 20 vở kịch do ông sáng tác, đều
có tiếng vang, thời kỳ sung sức nhất là trước năm 1945. Chẳng hạn như:
Hoàng mộng điệp (năm 1922), Uyên ương (năm 1927), Hai tối tân hôn
(1929), Nghệ sĩ hồn (1932), Kinh Kha (1934), Trường hận (bằng tiếng
Pháp, được giải thưởng của Viện Hàn lâm Nice, Pháp), Lệ Chi Viên (diễn
tại Hà Nội 1943), Khóc lên tiếng cười (diễn tại Hà Nội 1943). Bước ngoặt
mới của Vi Huyền Đắc được đánh dấu từ vở bi kịch Kim tiền và vở hài
kịch Ông ký Cóp. Kim tiền được diễn lần đầu tại Nhà hát Tây (Nhà hát
thành phố) Hải Phòng ngày 19-12-1938 do Lê Đại Thanh thủ vai Trần Thiết
Chung, nhân vật chính của vở kịch. Mãi 5 năm sau vở này mới được diễn
lần thứ hai tại Nhà hát Tây (Nhà hát Lớn) Hà Nội, lần này Nguyễn Tuân
thủ vai Trần Thiết Chung. Trong lần diễn sau, kiểm duyệt Pháp bắt cắt
cảnh công nhân mỏ đình công và bắn chết Trần Thiết Chung vì sợ vở kịch
khơi mào cho những cuộc bãi công thực sự. Kim tiền được đăng trên báo
Ngày nay và được giải thưởng của Tự Lực văn đoàn năm 1937. Ông ký Cóp là
hài kịch cũng diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Tây Hải Phòng ngày
8-10-1938. Nếu như Kim tiền phơi bày các thủ đoạn làm giàu và phi nhân
tính của tư sản mại bản thì Ông Ký Cóp đả kích cái dáng cười của lễ giáo
phong kiến lỗi thời.
Theo thi sĩ Nguyễn Vỹ: ...Một lần, Thế Lữ đến Hải Phòng thăm Vi
Huyền Đắc. Ông hỏi vì sao công kích Nguyễn Vỹ đến thế, thì nghe Thế Lữ
trả lời đại khái là không thích thơ Nguyễn Vỹ. Vi Huyền Đắc liền bảo:
“Trong vườn văn học nước ta hiện đang khô khan nghèo nàn, Nguyễn Vỹ cũng
là kẻ gieo hạt giống mới như các anh, sao anh không để cho hạt giống ấy
mọc mà lại muốn cho nó chết đi?”. Lúc bấy giờ, Vi Huyền Đắc chưa quen
biết Nguyễn Vỹ, vì vậy nhà thơ càng cảm động khi nghe kể lại câu chuyện
ấy...
Trong trí nhớ của Giáo sư, bác sĩ y khoa Vi Huyền Trác, con trai
nhà soạn kịch Vi Huyền Đắc: Buổi sáng trong nhà, ông Vi Huyền Đắc thường
pha ấm trà ngon, gọi hai con là Vi Giác và Vi Huyền Trác đến uống và
đọc các bài thơ hay cho nghe. Vi Huyền Đắc rất quý sách. Sách tới tay
ông, của các tác giả trong nước như các nhà văn trong nhóm Tự Lực văn
đoàn và bạn bè hay các tác giả nước ngoài, ông đều đóng bìa cứng, bìa da
bày ngay ngắn trong các giá sách. Ông Đắc rất chịu học: học thêm tiếng
Anh từ các con, học Hán văn từ các cụ cử. Hồi còn ở Hải Phòng, ông chí
thú làm Bách khoa tự điển Việt Nam, đã được 5.000 mục từ. Sách chưa in,
nay đã mất bản thảo. Giáo sư Vi Huyền Trác còn nhớ: Những ngày được gần
bố ở căn nhà bên sông Tam Bạc, hai anh em ít khi được ngồi ăn cơm với
bố. Ông Vi Huyền Đắc đối xử với các con thân ái, bình đẳng, rất Tây,
nhưng ông có những thói quen riêng. Không ăn cơm với gia đình cũng là
một thói quen.
Sân khấu truyền thống nước ta trước đây có chèo, sau đó là tuồng,
cải lương cũng mới xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, kịch nói du nhập sau
cùng từ kịch phương Tây. Trước Vi Huyền Đắc đã có một số tác giả kịch
nói, tuy nhiên chỉ từ Vũ Đình Long (1896 -1960) và Vi Huyền Đắc, kịch
nói của ta mới thực sự có bước chuyển mạnh mẽ trong buổi đầu non nớt của
nó. Đỉnh cao của tay nghề Vi Huyền Đắc lại chính là thời gian ông sinh
sống và làm việc tại Hải Phòng.
(Nguồn: Vi Huyền Đắc- nhà soạn kịch nổi tiếng/Đông Hải//Báo Hải Phòng Online. - ngày 26/1)
tỉnh Quảng Ninh, mất năm 1976 tại Hà Nội. Ông có khoảng thời gian dài
sinh sống, lập nghiệp và đã thành danh tại đất Cảng Hải Phòng. Theo nhà
nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan, trong khoảng 20 vở kịch của mình, Vi
Huyền Đắc chỉ thật sự nổi tiếng khi ra mắt vở Kim tiền và Ông Ký Cóp,
được công diễn lần đầu ở Nhà hát Tây Hải Phòng (nay là Nhà hát thành
phố).
Vi Huyền Đắc còn có bút danh là Giới Chi. Cụ thân sinh ra ông là Vi
Hồi Ngọ, làm thầu khoán, mộ phu làm đường, làm mỏ và có một đội thuyền
vận tải riêng hoạt động ở vùng Đông Bắc Bắc Bộ. Mẹ là con gái Tiến sĩ
Hán học Nguyễn Tư Giản, Thượng thư Bộ Lại triều Tự Đức (1823 -1890).
Thuở nhỏ Vi Huyền Đắc học chữ Hán, sau đó chuyển sang theo tân học. Tốt
nghiệp Thành Chung ở Hải Phòng, ông thi vào trường Mỹ nghệ Hà Nội nhưng
sau đấy lại vào Sài Gòn làm lái xe và bắt đầu viết một số bài báo có xu
hướng tiến bộ. Cha mất, Vi Huyền Đắc trở ra Hải Phòng kế thừa cơ nghiệp
để lại. Ông bắt đầu viết văn và mở nhà in Thái Dương văn khố trên phố
Cầu Đất để xuất bản tác phẩm của mình và bạn bè. Có lẽ ông không có khả
năng kinh doanh như người cha và cũng có thể do ông say mê văn chương
hơn nên phải bán dần tài sản để sinh sống. Tuy nhiên công việc và hình
ảnh của người cha và phần nào của chính mình sau khi được kế thừa tài
sản cũng như sự lụn bại về kinh tế đã cung cấp cho Vi Huyền Đắc những
chất liệu sống sinh động trong sáng tác.
Vốn ham văn chương, Vi Huyền Đắc lại có nhiều điều kiện tiếp xúc
với thợ thuyền lam lũ vất vả, ông hiểu sâu thêm các ngón bóc lột của
giới chủ. Ông viết kịch, đề cao người lương thiện, tình chung thủy; quan
điểm xã hội tiến bộ và lòng yêu tự do, chống lễ giáo phong kiến của Vi
Huyền Đắc ngày càng rõ nét. Trong khoảng 20 vở kịch do ông sáng tác, đều
có tiếng vang, thời kỳ sung sức nhất là trước năm 1945. Chẳng hạn như:
Hoàng mộng điệp (năm 1922), Uyên ương (năm 1927), Hai tối tân hôn
(1929), Nghệ sĩ hồn (1932), Kinh Kha (1934), Trường hận (bằng tiếng
Pháp, được giải thưởng của Viện Hàn lâm Nice, Pháp), Lệ Chi Viên (diễn
tại Hà Nội 1943), Khóc lên tiếng cười (diễn tại Hà Nội 1943). Bước ngoặt
mới của Vi Huyền Đắc được đánh dấu từ vở bi kịch Kim tiền và vở hài
kịch Ông ký Cóp. Kim tiền được diễn lần đầu tại Nhà hát Tây (Nhà hát
thành phố) Hải Phòng ngày 19-12-1938 do Lê Đại Thanh thủ vai Trần Thiết
Chung, nhân vật chính của vở kịch. Mãi 5 năm sau vở này mới được diễn
lần thứ hai tại Nhà hát Tây (Nhà hát Lớn) Hà Nội, lần này Nguyễn Tuân
thủ vai Trần Thiết Chung. Trong lần diễn sau, kiểm duyệt Pháp bắt cắt
cảnh công nhân mỏ đình công và bắn chết Trần Thiết Chung vì sợ vở kịch
khơi mào cho những cuộc bãi công thực sự. Kim tiền được đăng trên báo
Ngày nay và được giải thưởng của Tự Lực văn đoàn năm 1937. Ông ký Cóp là
hài kịch cũng diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Tây Hải Phòng ngày
8-10-1938. Nếu như Kim tiền phơi bày các thủ đoạn làm giàu và phi nhân
tính của tư sản mại bản thì Ông Ký Cóp đả kích cái dáng cười của lễ giáo
phong kiến lỗi thời.
Theo thi sĩ Nguyễn Vỹ: ...Một lần, Thế Lữ đến Hải Phòng thăm Vi
Huyền Đắc. Ông hỏi vì sao công kích Nguyễn Vỹ đến thế, thì nghe Thế Lữ
trả lời đại khái là không thích thơ Nguyễn Vỹ. Vi Huyền Đắc liền bảo:
“Trong vườn văn học nước ta hiện đang khô khan nghèo nàn, Nguyễn Vỹ cũng
là kẻ gieo hạt giống mới như các anh, sao anh không để cho hạt giống ấy
mọc mà lại muốn cho nó chết đi?”. Lúc bấy giờ, Vi Huyền Đắc chưa quen
biết Nguyễn Vỹ, vì vậy nhà thơ càng cảm động khi nghe kể lại câu chuyện
ấy...
Trong trí nhớ của Giáo sư, bác sĩ y khoa Vi Huyền Trác, con trai
nhà soạn kịch Vi Huyền Đắc: Buổi sáng trong nhà, ông Vi Huyền Đắc thường
pha ấm trà ngon, gọi hai con là Vi Giác và Vi Huyền Trác đến uống và
đọc các bài thơ hay cho nghe. Vi Huyền Đắc rất quý sách. Sách tới tay
ông, của các tác giả trong nước như các nhà văn trong nhóm Tự Lực văn
đoàn và bạn bè hay các tác giả nước ngoài, ông đều đóng bìa cứng, bìa da
bày ngay ngắn trong các giá sách. Ông Đắc rất chịu học: học thêm tiếng
Anh từ các con, học Hán văn từ các cụ cử. Hồi còn ở Hải Phòng, ông chí
thú làm Bách khoa tự điển Việt Nam, đã được 5.000 mục từ. Sách chưa in,
nay đã mất bản thảo. Giáo sư Vi Huyền Trác còn nhớ: Những ngày được gần
bố ở căn nhà bên sông Tam Bạc, hai anh em ít khi được ngồi ăn cơm với
bố. Ông Vi Huyền Đắc đối xử với các con thân ái, bình đẳng, rất Tây,
nhưng ông có những thói quen riêng. Không ăn cơm với gia đình cũng là
một thói quen.
Sân khấu truyền thống nước ta trước đây có chèo, sau đó là tuồng,
cải lương cũng mới xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, kịch nói du nhập sau
cùng từ kịch phương Tây. Trước Vi Huyền Đắc đã có một số tác giả kịch
nói, tuy nhiên chỉ từ Vũ Đình Long (1896 -1960) và Vi Huyền Đắc, kịch
nói của ta mới thực sự có bước chuyển mạnh mẽ trong buổi đầu non nớt của
nó. Đỉnh cao của tay nghề Vi Huyền Đắc lại chính là thời gian ông sinh
sống và làm việc tại Hải Phòng.
(Nguồn: Vi Huyền Đắc- nhà soạn kịch nổi tiếng/Đông Hải//Báo Hải Phòng Online. - ngày 26/1)

