1. Di tích:

Từ Lương Xâm là một di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, nay thuốc địa bàn làng Lương Xâm – phường Nam Hải – quận Hải An thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã từng là đại bản doanh đóng quân và tích trữ lương thực của Ngô Quyền trong trận đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938. Sau khi Đức Ngô Vương Quyền mất, dân làng ở đây đã dựng đền thờ ông để tỏ lòng kính trọng và tôn vinh với một vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Trải qua một thời gian dài với nhiều biến cố lịch sử, Từ Lương Xâm ngày nay là một địa điểm hội tụ tâm linh, tín ngưỡng đông đảo của người dân địa phương và khách thập phương khắp nơi trong cả nước.
Theo những tài liệu xưa nhất có được thì Từ Lương Xâm được xây dựng từ thời Hậu Lê và được trùng tu lớn vào thời Nguyễn, chỉ có một số chi tiết kiến trúc của Từ còn mang dáng dấp nghệ thuật thời Hậu Lê. Tương truyền thì vị trí Từ Lương Xâm ngày nay chính là đại bản doanh đóng quân của Ngô Quyền khi ông chuẩn bị cho việc bày trận mai phục đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938. Ngày nay ở Lương Xâm vẫn còn chứng tích của tường thành mà Ngô Quyền cho đắp để đóng tại bản doanh quân đội của mình. Thành có hình giống như vành một chiếc kiệu vì vậy nhân dân quen gọi là thành Vạnh Kiệu. Thành được đắp trên một gò đất cao, có chu vi khoảng 1.700. Trải qua những biến động của thời gian, thành đã bị phá hủy nhiều, nhiều chỗ nhiều khi không còn để lại dấu tích. Riêng phần còn lại với dấu tích rõ rệt có hình giống vạnh kiệu với độ dài trên dưới 1.300 m, bề rộng trung bình 1 m, có đoạn rộng tới 7 m, chiều cao khoảng xấp xỉ một mét chỗ cao nhất là 1,6m. Theo thần tích đình Gia Viên soạnh vào năm 1572 miêu tả thì nằm ở gò đất cao – trung tâm của thành Vành Kiệu, là đền thờ Ngô Quyền, nhân dân gọi là Từ Cả.
Ngày nay Từ Lương Xâm tọa lạc trên một khu đất rộng, cao ráo hơn so với địa hình xung quanh. Với kiến trúc được làm theo hình chữ Công, từ ngoài cổng vào ta bắt gặp hai giếng nước đào nhỏ ở hai bên được gọi tắt là giếng mắt rồng, quanh năm đầy ắp nước. Tương truyền khi đóng quân ở đây, Ngô Quyền đã cho đào để quân lính lấy nước ăn uống, sinh hoạt.
Từ cổng chính vào là một khoảng sân rộng ước chừng 200 m2 là nơi diễn ra các hoạt động tế lễ và hội hè hằng năm. Hai bên là hai dãy tả vu và hữu vu dùng cho việc chuẩn bị những công việc hành sự tế lễ hoặc nghỉ ngơi, tiếp khách.
Qua mảng sân rộng là tòa Tiền đường. Tòa Tiền đường là tòa nhà năm gian với diện tích tổng thể khoảng 150m2 , được dựng trên bộ khung bao gồm bốn bộ vì giữa, mỗi bộ vì này được liên kết bởi bốn hàng cột lim chắc khỏe (hai cột cái có chu vi to gấp rưỡi hai cột quân). Vì kèo được làm theo kiểu chồng rường giá chiêng: hai cột cái bối với nhau bằng một xà gỗ lớn (câu đầu) chỉ kê trên đầu cột cái chứ không có một ăn vào cột cái. Ở đầu mỗi cột cái vươn ra về hai bên theo chiều ngang (song song với câu đầu) là các đầu dư đỗ lấy câu đầu, đặc biệt các đầu dư này được chặm khác nổi hình rồng, miệng há, môi trên hếch lên đỡ lấy câu đầu trông rất nghệ thuật
Nối liền tòa Tiền bái với tòa Hậu cung ở giữa là nhà Thiêu hương (gian ống muống). Nhà thiêu hương được thiết kế rộng sang cả hai bên tả, hữu. Bên hữ là nơi đặt thờ ba chiếc cọc gỗ - chứng tích mà Ngô QUyền đã dùng khi đánh trận Bạch Đằng lịch sử năm xưa và bên tả lừ nơi thờ chiếc thuyền lớn – biểu tượng cho sự chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền.
Tòa hậu cung có cấu trúc thiết kế giống như tòa Tiền bái nhưng diện tích nhỏ hơn. Giữa gian của tòa Hậu cung là hai pho tượng mặc xiêm y triều phục, tay trái cầm gơm, tay phải đặt trước ngực trong thế phụng hầu. Đây chính là hai pho tượng Đào Nhuận và Nguyễn Tất Tố - hai vị tướng tài của Ngô Quyền người làng Gia Viên, Hải Phòng đã có công trong trận Bạch Đằng năm xưa.
Cung cấm của tòa Hậu cung là nơi đặt thần tượng của người anh dùng dân tốc Ngô Vương Quyền. Tượng được làm bằng gỗ tốt và có từ xa xưa. Tượng ngồi trên long ngai, đặt long khám và được sơn son thiếp vàng. Thần tượng được đặt ngồi trong tư thế thiết triều, đầu đội vương miệng cánh chuồn, thân khoác áo long bào đỏ trên thêu hình rồng, phượng.
Theo tài liệu thống kê di tích của Từ Lương Xâm thì tại đây còn lưu giữ được 132 di vật, trong đó có những cổ vật có giá trị lớn về mặt lịch sử và văn hóa như: nhang án, kiệu bát cống, sắc phong qua các triều đại. Riêng với sắc phong thì tổng số còn lại đến ngày nay là 25 đạo sắc, có niên đại từ thế kỷ XVII (thuộc triều Lê Sơ) đến năm 1924 (thuộc triều Nguyễn), trong đó có nhiều sắc phong của các triều đại suy tôn ông là “Thượng đẳng tối linh Đại vương” hay “Ngô Vương thiên tử”.
Nhìn chung các công trình kiến trúc dựng trong Từ nhìn toàn cảnh là một kiểu kiến trúc liên hoàn khép kín mang vẻ trang nghiêm. Chúng được đắm mình trong một không gian thiêng đầy tính tự nhiên bởi các cây cổ thụ cổ kính có niên đại trên dưới 400 năm như cây đa, cây gạo tạo thêm cho di tích một sinh linh thiên thâm sâu nơi cõi thánh.
2. Tiểu sử và Thần tích Ngô Vương Quyền.
Ngô Quyền là một nhân vật lịch sử kiệt xuất, một vị anh hùng đã có công mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam – thời đại độc lập tự chủ.
Ngô Quyền người làng Đường Lâm (thuộc Ba Vì – Hà Nội ngày nay), họ Ngô húy là Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tị (năm 897) trong một gia đình hào trưởng có tài. Quê hương ông là nơi có truyền thống anh dũng, bất khuất trong đấu tranh, nơi sản sinh và nuôi dưỡng người anh hùng dân tộc Phùng Hưng trong sự nghiệp đánh đuổi giặc nhà Đường, mang lại độc lập cho dân tộc.
Ngô Quyền là một người có sức khỏe phi thường, có trí óc thông minh, nhanh nhẹn hơn người. Sinh ra trong một gia đình hào trưởng, từ bé đã được cha cho ăn học và luyện tập võ nghệ. Vì vậy, khi lớn lên, ông đã trở thành người văn võ song toàn và tiếng tăm lan rộng cả một vùng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua khi mới sinh có điềm ánh sáng khắp nhà, hình dạng khác thường, ở lưng có ba nốt ruồi, người xem tướng cho là lạ, bảo rằng có thể làm nên chúa một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Đến khi lớn lên, vẻ người khôi ngô, mắt sáng như chớp, đi thong thả như cọp, có trí dũng, sức có thể cầm vạc giơ lên”. [2, tr.193].
Với tiếng tăm nổi tiếng như vậy, Ngô Quyền đã được Dương Đình Nghệ (Tiết độ sứ lúc bấy giờ) giao cho cai quản đất Ái Châu và gả con gái cho. Năm 937 nha tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn đã giết hại Đình Nghệ để đoạt chức Tiết độ sứ. Nghe tin, Ngô Quyền đã đem quân từ Ái Châu ra đánh Công Tiễn. Công Tiễn sợ hãi bèn sai sứ đem của cải sang cầu viện nhà Nam Hán. Vua Nam Hán là Lưu Cung nhân cơ hội này định bụng sẽ mang quân thôn tính nước ta, vì vậy đã sai đích thân con trai mình là Vạn vường Hoằng Thao làm Lĩnh hải quân tiết độ sứ, đổi phong Giao vương, đem quân trên danh nghĩa là vào cứu Công Tiến, song thực chất là xâm lược thôn tính nước ta.
Mùa đông, tháng 10 năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền đem quân vượt đèo Ba Dội(1) , tiến thắng vào thành Đại La, tiến công và đánh tan tác đội quân của Kiều Công Tiễn. Bắt được Tiễn, Ngô Quyền cho chém và bêu đầu trước cổng thành để uy hiếp giặc và khích lệ tinh thần chiến đấu của toàn binh sĩ. Sau khi đã tiêu diệt thù trong, ông chuẩn bị gấp rút mọi điều kiện cho cuộc đọ sức với giặc Nam Hán đang chuẩn bị tiến vào nước ta.
Tháng 12 năm Mậu Tuát (938), Hoằng Thao chỉ huy các chiến thuyền to lớn hùng hổ tiến vào nước ta bằng đường thủy qua ngả sông Bạch Đằng. Đại Việt Sử ký toàn thư chép rằng khi nghe tin Hoằng Thao sắp đến, Ngô Quyền với các tướng lĩnh dưới quyền rằng: “Hoằng Thao là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi; quân ta còn sức mạnh địch với quân mệt mỏi, tất phá được. Song họ có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thị chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt đầu nhọn mạ bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước triều lên tiến bào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế ấy cả” [2, tr.191].
Đúng như dự định, khi nước thủy triều lên, đại binh thuyền của Hoằng Thao nối đuôi nhau tiến ào ạt vào cửa sông Bạch Đằng. Ngô Quyền cử Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận người làng Gia Viên (Hải Phòng) có tài bơi lội và quen thuộc địa hình sông nước quê hương, chỉ huy một chiến thuyền nhỏ, nhẹ ra khiêu chiến và nhử thuyền địch vào trận địa cọc mai phục của ta. Đạo quân của ta do Đỗ Cảnh Thạc, Ngô Xương Ngập, Dương Tam Kha được bố trí lực lượng mai phục ở hai bên tả ngạn và hữu ngạn sông chặn đánh không cho địch rút chạy. Khi nước thủy triều bắt đầu rút, Ngô Quyền đích thân chỉ huy đại quân tiến đánh địch. Thuyền địch bị vướng vào hàng cọc và bị các đầu cọc nhọn đâm thủng, vỡ tan tành, quân địch hoảng loạn không kịp chỉnh đốn nhảy bừa xuống sông chết đuối quá nửa, số còn lại bị quân ta chém chết tại trận. Tướng giặc là Hoằng Thao cũng bị bắt tại trận và bị chém đầu ngay tức khắc. Vua Nam Hán nghe tin sọ, thương khóc con trai và thu nhặt đám tàn quân sót lại mà rút lui, không giám quay đầu lại.
Sau chiến thắng, năm 939, Ngô Quyền xưng vương và bãi bỏ chức Tiết độ sứ, lập Dương Thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục. Kể từ đây đất nước ta thực sự bước vào một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc – thời đại độc lập tự chủ. Nhưng đáng tiếc thay vào năm Giáp Thìn 944 Ngô Quyền đột ngột mất ở tuổi 47, thời gian ngắn ngủi của ông quá ngắn ngủi, chỉ vẻn vẹn sáu năm.
Sử gia Lê Văn Hưu có lời bàn: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quan mới họp đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể bảo là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương chưa lên ngôi hoàng đế mà đổi niên hiệu, mà chính thống của nước Việt ta Ngô hầu đã nối lại được” [2, tr.194].
Còn sử thần Ngô Sĩ Liên cũng trong Đại Việt Sử Ký toàn thư cũng có lời bàn: “Nhà Tiền Ngô nổi lên được, khong những chỉ có công chiến tháng mà thôi, việc đặt tram quan, chế định triều nghi phẩm phục; có thể thấy được quy mô của đế vương” [2, tr.194].
Sau khi ông mất, với những công lao to lớn vĩ đại đó, Ngô Quyền được nhân dân ở khắp nơi tôn thờ xây lăng, đền, đình, miếu cũng giỗ. Ở Hải Phòng có đến trên 30 địa danh trong thành phố có điểm thời tự ông. Riếng ở quận Hải An có tới 22 di tích ở các làng với các công trình mang tên như: từ, miếu, đình, đền thờ Ngô Vương Quyền. Trong đó 22 dic tích kể trên thì có 10 di tích đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia; bốn di tích được xếp hạng di tịch lịch sử văn hóa cấp thành phố. Từ Lương Xâm là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia và được gọi là Từ Cả (Từ Chính).
3. Lễ hội.
Cũng giống như lễ hội của các vùng miền khác trên cả nước, lễ hội Từ Lương Xâm là sự thể hiện một nét đẹp truyền thống văn hóa quý báu của nhân dân ta. Hàng năm, lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ đến công lao to lớn của Đức Ngô Vương Quyền – người đã có công to lớn trong sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do cho nhân dân, đồng thời nó cũng còn chứa đựng cả những ước nguyện khát khao của nhân dân về một cuộc sống no ấm, đầy đủ. Lễ hội Từ Lương Xâm hàng năm là lễ hội có tính lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân trong vùng và có tính giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc mạnh mẽ.
Ngày xưa, như các cụ kể lại, lễ hội Từ Lương Xâm hằng năm được tổ chức trong ngày (từ ngày 16 đến 18 tháng giêng) – đúng vào dịp kỷ niệm ngày mất Đức Ngô Vương Quyền để tưởng nhớ công lao của ông. Để chuẩn bị tốt cho hoạt động cảu lễ hội, ngay từ ngày 14 tháng giêng nhân dân tổng Lương Xâm đã tiến hành các hoạt động tế lễ như: lễ trình, lễ mở cung, lễ mộc dục, lễ di cung thánh thượng, lễ an vị. Sáng ngày 15 tháng giêng, lễ rước thánh tượng ra đình Lương Xâm được tổ chức từ sáng sớm với nghi lễ thành ính, trang nghiêm cùng với sự tham gia nô nức của đông đảo nhân dân trong vùng. Thánh tượng được rước ra đình để làm lễ và phụng thờ một đêm ở đó. THam gia lễ rước còn có đoàn rước của các làng lân cận cùng có di tích thờ Ngô Vương Quyền như đoàn rước của làng Hạ Lũng, làng Hạ Đoạn, làng Xâm Bồ… Đi đầu đoàn rước bao giờ cũng là đoàn của làng Lương Xâm, xau đó là Hạ Đoạn, Xâm Bồ, Hạ Lũng và các đoàn của các địa phương khác. Sáng 16 tháng giêng, thánh tượng được rước từ đình về Từ Lương Xâm làm đại tế với những nghi lễ truyền thống và kể từ đây các hoạt động của lễ hội chính thức được bắt đầu.
Cũng theo các cụ già làng kể lại thì cứ năm năm một lần, gặp thời “phong đăng hoa cốc”, màu mạng bộ thu, nhân dân nô đủ thì mọi người dân ở các làng xã thuộc vùng An Dương cũ (diện tích Hải An ngày nay là một phần của An Dương trước đay) lại tưng bừng mở hội và hợp tế lại Từ Cả Lương Xâm với các nghi thức tế lễ và đoàn rước của các đội tế “Tứ linh từ” từ các làng khác trong rổng. Tứ linh từ được người dân địa phương tôn thờ trên địa phương mình với bốn vị thánh là: Ngô Vương Quyền, (thờ ở Từ Lương Xâm); Trần Hưng Đạo – Đức thánh Trần (thờ ở đề Phú Xá); Công chúa Liễu Hạnh – Thượng Thiên Thánh Mẫu (thờ ở phủ Thượng Đoạn); Đức Thánh Nam Hải Đại cương – Phạm Tử Nghi (thờ ở từ Nghĩa Xá). Đứng chân chủ tế trong các dịp tế lễ này đích thân phải là chánh tổng. Sau lễ hợp tế, cấc đoàn mới nghi vệ Thành hoàng của làng mình tỏa về các làng mở hội vui chơi, diễn rò “bách hí”.
Thời kỳ toàn dân kháng chiến, do tình hình ác liệt của cuộc chiến, lễ hội Từ Lương Xâm không thực hiện được một cách đều đặn. Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc và đặc biệt sau ngày thống nhất tổ quốc, nhân dân nơi đây đã từng bước khôi phục tổ chức lại diện mạo lễ hội để nối tiếp truyền thống văn hóa làng xã ucar những lớp cha ông đi trước.
Thực hiện tinh thần của Nghi quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng về việc “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, ngoài việc chăm lo, phát triển về đời sống, kinh tế, vật chất cho nhân dân, các cấp chính quyền nơi đây đã chú ý quan tâm đến việc quản lý, giữ gìn, tu bổ và tôn tạo lại di tích Từ Lương Xâm và khôi phục lại hoạt động lễ hội của nó để nhằm đáp ứng nhu cầu về mặt tinh thần của nhân dân trong vùng.
Trên nền tinh thần đó, năm 2006, Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) đã đầu tư trên 12 tỉ đồng, kết hợp với nguồn kinh phí đóng góp của nhân dân để trung tu, tôn tạo lại khu di tích và đến năm 2008 công việc đã cơ bản hoàn thành, mang lại khu di tích một vẻ uy nghi, hoành tráng. Cũng năm 2008 nhân dân lễ khánh thành công trình trung tu khu di tích; kỷ niệm 1070 năm chiến thắng vĩ đại Bạch Đằng và 1064 năm ngày mất của Đức Ngô Vương Quyền, lễ hội Từ Lương Xâm được đặc biệt tổ chức trang trọng với sự có mặt của lãnh đạo Ủy ban Nhân dân thành phố, Ủy ban nhân dân quận Hải An, phường Nam Hải và đông đảo bà con nhân dân khắp vùng.
Lễ hội Lương Xâm ngày nay cơ bản được phục hồi có diện mạo giống như lễ hội trước đay. Công việc chuẩn bị một cách khá chu đáo. Trước ngày chính thức tổ chức lễ hội khoảng một tuần, Ban quan lý di tích tổ chức họp bàn dân làng (thành phần bao gồm: đại diện cho chính quyền cơ sở, đại diện nhân dân công an và dân phòng) để phổ biến và xin ý kiến kế hoạch tổ chức lễ hội. Trong cuộc họp này, Ban tổ chức mà đứng đầu là ông trưởng ban quản lý khu di tích đưa ra các phương án tổ chức lễ hội, bầu ra các Ban chịu trách nhiệm từng mảng công việc cụ thể như: Ban trang trí, khánh tiết; Ban mời và đón tiếp khách; Ban tế lễ; Ban tổ chức vui chơi, văn nghệ; Ban hậu cần; Ban an ninh lễ hội.
Trước lễ hội một ngày, các hoạt động tế lễ trang nghiêm được tiến hành như: lễ mộc dục, lễ rước văn, lễ khai cung xin Thành hoàng cho dân làng được mở hội.
Sáng ngày hôm sau (16 tháng giêng) lễ hội chính thực được diễn ra. Từ sáng sơm, các đoàn tế, rước của đông đảo bà con nhân dân các khu như Đằng Hải, Đông Hải, Nam Hải đã tổ chức rước thần từ các linh từ và tập trung hội tụ đến Ủy ban Nhân dân phường Nam Hải. Sau đó tất thảy các đoàn rước mà đi đầu là đoàn của khu Nam Hải bắt đầu tiến về Từ Cả (Từ Lương Xâm) để làm các nghi lễ tế yết truyền thống.
Sau khi các đoàn rước trở về ổn định đội hình theo sự phân công trước của Ban tổ chức tại sân tế lễ của Từ, ông trưởng ban tổ chức lễ hội đứng lên tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu, mọi người làm thủ tục chào cờ, hát quốc ca, giới thiệu một vị đại diện cho chính quyền địa phương (mà thường là ông chủ tịch phường) lên đọc lời khai mạc lễ hội. Tiếp theo là bài diễn văn tiểu sử tóm tắt – thần phả Đức Thánh Ngô Vương Quyền do ông trưởng ban quản lý khu di tích này trình bày. Kế tiếp là phần lễ dâng hương của các đoàn và của các đại biểu về dự hội.
Phần tiếp theo quan trọng trong buổi sáng ngày khai mạc lễ hội là phần khóa tế. Phần khóa tế khai mạc này là phần do đội tế nam của Từ thực hiện. Đội hình tế là những người được tuyển chọn kỹ trong làng, tuổi đời khoảng từ 40 đến 60, có tiểu sử gia đình và bản thân tốt, dáng vóc tương đối ưa nhìn. Trước khi vào tế, đội hình tế đã ở vào vị trí phân công từ trước rất bài bản, nhịp nhàng. Hai vị Thông Họa (Đông xướng – Tây xướng) đứng trên hai ghế cao, bản rộng ở về hai phía tả - hữu của hương án. Phường bát âm được ngồi ở chiếu trải phía sau hai vị Thông – Họa. Ở giữa chiếu trước hương án la vị mạnh bái và hai bên là hai vị bồi tế. Đứng thành hai hàng dọc hai bên tả hữu của hương án, sau hai hàng lỗ bộ là các vị chấp sự (mỗi bên khoảng 8 đến 10 người). Cuối cùng là những người cầm sênh, tiền đứng ở vị trí cuối cùng của chiếu tế, tất cả đều đi giày hài, mũi cong, thêu rổng rất kiểu cách, tay chan nhún nhẩy, người thị lắc lư múa theo điệu nhạc của phường bát âm trên làn điệu lưu thủy ngũ đối để hầu thánh.
Chủ tế, bồi tế và các vị chấp sự hành lễ theo lệnh hô của hai vị Thông – Họa. Cuốc tế gồm 3 tuần lễ, đó là
+ Hành sơ hiến lễ (tuần lễ đầu)
+ Hành á hiến lễ (tuần lễ thứ hai)
+ Hành chung hiến lễ (tuần lễ thứ ba – tuần lễ cuối).
Phần tế được thực hiện trong sự chứng kiến tham dự của đông đảo nhân dân trong vùng, khách thập phương khắp nơi trong thành phố và các vùng miền khác nhau về dự, đẫ tạo cho lễ hội một không khí thành kính, trang nghiêm và linh thiêng.
Phần hội được tiến hành song song, xem kẽ với các phần lễ trong ba ngày tổ chức lễ hội với nhiều trò chơi dân gian khá độc đáo và đặc sắc. Những tiết mục biểu diễn văn nghệ truyền thống như: hát chèo, hát văn, hát dân ca của các đoàn nghệ thuật không chuyên trong vùng là không thể thiếu trong các hoạt động vui chơi của lễ hội. Các trò chơi dân gian truyền thống như: Múa lân, bịt mắt bắt dê, bịt mắt đập niêu, đu tiên, tổ tôm, cờ tướng cũng được tổ chức với sự tham gia của những người chơi và đông đảo người xem, cổ vũ hò reo đã góp phần tạo cho không khí của lễ hội thêm sắc màu vui tươi, sinh động.
Ngoài những trò chơi truyền thống kể trên, Ban tổ chức lễ hội còn tổ chức các cuộc thi về bóng đá, bóng chuyền là những môn chơi thể thao ngày nay mới được bổ sung. Những môn chơi này luôn luôn được sự tham gia hưởng ứng góp mặt của đông đảo nhân dân và các khách thập phương đến dự lễ hội, tạo thêm không khí sôi động của hoạt động lễ hội nói chung.
3. Kết luận
Từ Lương Xâm là một di tích lịch sử văn hóa lâu đời thờ Đức Ngô Vương Quyền – một anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Nơi đây đã từng là đại bản doanh tập kết quân, lương của Ngô Quyền trong trận chiến đấu và chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, mở ra một thời đại mới – thời độc lập tự chủ trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, của thời gian Từ được trung tu và sửa chữa nhiều lần. Với sự quan tâm đầu tư kinh phí của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, sự đóng góp của nhân dân trong vùng và khách thập phương, năm 2008, Từ đã được trung tu với quy mô lớn và cơ bản vẫn giữ được cốt cách diện mạo của kiến trúc xưa.
Hằng năm cứ vào trung tuần tháng giêng từ 16 đến 18, Lễ hội Từ Lương Xâm được tổ chức long trọng và thành kính, nhằm ghi nhớ công lao to lớn của người anh hùng dân tộc đẫ có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi, mang lại cuộc sống thanh bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đó là Ngô Quyền – vị vua đầu tiên của nước Việt ta. Lễ hội là sự thể hiện một nét đẹp văn hóa của người dân nơi đây trong việc giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa quý báu của dân tộc. Nó có tác dụng to lớn đáp ứng phần nào nhu cầu về đời sống tâm linh, tín ngưỡng của một bộ phận người dân nơi đây và khách thập phương. Hơn thế nữa, nó còn có tác dụng trong việc giáo dục những thế hệ đi sau biết trân trọng những thành quả của những lớp người đi trước đã không tiếc xương máu hi sinh anh dũng để lớp lớp cháu con ngày hôm nay có được cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc, từ đó hình thành trong họ lòng yêu quê hương, đất nước, ý thức trách nhiệm xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Trần Quốc Tuấn
Nguồn: Tạp chí Văn hóa dân gian.- Số 3(129).- 2010.-
Tháng 6.- Tr. 54-60

