Thái úy Tô Hiến Thành và công cuộc đắp đê Ngải Am (Vĩnh Bảo - Hải Phòng)

Nhà Lý được coi là triều đại văn trị, võ công với ý thức độc lập tự chủ cao. Để bảo vệ quốc gia, bên cạnh việc củng cố lực lượng quân sự; chấn chỉnh thể chế, kỷ cương luật pháp, triều Lý còn quan tâm đến việc mở mang bờ cõi, chiêu tập dân phiêu tán đến các vùng hoang hóa, biên viễn khai hoang lập ấp, xây dựng các đồn trú biên phòng để khẳng định chủ quyền quốc gia.


Giáo sư sử học Trần quốc Vượng nhận định: Nhà Lý đã có cái nhìn hướng biển tốt hơn. Tháp Tường Long của Nhà Lý vòi vọi trên đỉnh Đồ Sơn (cao 100 trượng - 40 m) là một biểu tượng của chủ quyền và văn hóa Đại Việt Thănng Long trên đất cảng Hải Đông. Các vua Lý thường ngự thuyền lớn đi thị sát miền biển Hải Đông và vẽ bản đồ vùng nàyyyy (Trần Quốc Vượng: Theo dòng lịch sử - những vùng đất, thần và tâm thức của người Việt. Nxb. Văn hóa, năm 1996, Tr. 292)


Với cái nhìn chiến lược đối với việc hưng thịnh quốc gia, nhà Lý rất chú trọng việc an dân, trị thủy để phát triển kinh tế, trong đó có việc đắp đê ngăn nước biển (mà đê Ngải Am ở Vĩnh Bảo là một minh chứng)


Tương truyền, xưa kia khi chưa có đê bối, vùng đất ba xã Cổ Am, Tam Cường, Vĩnh Tiến nay cứ sáng ngày nước biển dâng lên mênh mông, ngập lụt. Chiều xuống thủy triều rút đi để lại một khoảng bãi bồi rộng lớn, sú vẹt, lau lách mọc thành rừng.


Nhân dân các làng Cổ Am, Tiên Am, Lạng Am... đã nhiều lần tổ chức đắp đê ngăn nước biển nhưng đều không thành. Công sức của họ luôn bị sóng biển cuốn trôi bởi vì vùng này đương thời là cửa biển, thường có sóng to, gió lớn (sử cũ gọi là Ngải môn quan). Địa danh Ngải Môn đã được Nguyễn Trãi nhắc đến trong sách Dư Địa chí (thế kỷ XV). Ngải Môn thời Lê là một đồn trấn cửa biển thuộc địa bàn làng Cổ Am. Vùng đất làng Ngải Am, Dương Am ngày nay từ thời Lý đến đầu thời Lê vẫn còn là cửa sông. Còn vùng đất Cổ Am, Đông  Am, Tiên Am, Lạng Am lúc đó mới chỉ là những bãi bồi ven biển do phù sa sông Thái Bình tạo thành.


Theo thần tích đình thôn Thượng Am và truyền thuyết ở làng Cổ Am: Vào năm 1161, thái úy Tô Hiến Thành (tổng chỉ huy quân đội) phụ chính công việc Nhà Vua được triều đình cử ra Ngải Môn quan giúp dân trị thủy, khai khẩn đất hoang, mở rộng sản xuất, củng cố việc canh phòng bờ biển.


Tô Hiến Thành người làng Hạ Mỗ, huyện Ô Diên (thôn Hạ Mỗ, xã Hồng Thái, huyện Đan Phượng, Hà Tây cũ) làm quan tới chức Thái úy đời vua Lý Anh Tông. Là bậc trung thần, Tô Hiến Thành đã giúp vua Lý Anh Tông đánh đông dẹp bắc, giữ cho đất nước được yên, luyện tập binh lính, kén chọn nhân tài giúp nước.


Để trị thủy, Tô Hiến Thành đem quân bản bộ và huy động dân chúng ở các phủ Thượng Hồng, Hạ Hồng, Kinh Môn, Nam Sách, Thái Bình đắp đê biển Ngải Am. Tô Hiến Thành dựng bản doanh tại thôn Thượng Am, lệnh cho các quan phủ, huyện trong hạt trưng dụng toàn bộ thuyền bè hiện có trong dân để vận chuyển hàng vạn mét khối đá hộc từ Đông Triều, Kinh Môn về. Mặt khác ông cho mời các vị bô lão am hiểu tình hình sông nước tới bàn kế đắp đê trị thủy.


Tương truyền đê đắp đến lần thứ ba song vẫn bị hung thần, thủy quái của biển cả tàn phá. Tô Hiến Thành lấy làm lo lắng bởi chưa hoàn thành sự ủy thác của triều đình và trông đợi của muôn dân. Ông ngày đêm suy nghĩ tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thất bại. Làm việc gần dân ông càng thấu hiểu nối thống khổ của trăm họ trước sự tàn phá của thiên tai, biển cả. Theo hiến kế của dân, Tô Hiến Thành đã thân hành tới miếu thờ Thiên Quan ở thông Thượng thành tâm cầu xin các đấng thần linh âm phù trợ giúp. Đêm đó trong chiêm bao ông thấy một vị thiên thần mặc áo giáp trụ, quắc thước hiện lên báo rằng: 5 ngày nữa ngươi hãy huy động mọi người đắp đê, ta sẽ trợ giúp việc diệt tà, trừ quái, việc lớn ắt thành. Sáng hôm sau Tô Hiến Thành dùng cỗ thái lao tế cáo trời đất, bách thần và các đấng tiên vương nhà Lý phù giúp.


Thái úy huy động vật tư, nhân lực, gấp rút chuẩn bị. Bản thân ông cũng chưa hết lo lắng bởi theo chỉ dẫn của đức Thiên Quan lại là ngày nguyệt tận (cuối tuần trăng), đêm tối mịt mùng, đắp đê sẽ khó.


Tối ngày Thiên quan đã hẹn, hàng vạn người tề tựu, phương tiện sẵn sàng chờ lệnh khởi công với đèn đuốc sáng ngời một dải bờ biển. Trời đang tối đen như mục bỗng mây mù tan ra, hàng nghìn vì tinh tú lấp lánh trên bầu trời. Mọi người vui mừng khôn xiết bởi tin có thần linh phù trợ nên làm việc không biết mệt mỏi. Chỉ sau một đêm con đê kè bằng đá sừng sững dài chục dặm (5 6 cây số) đã hoàn thành, chặn đứng mọi cơn sóng biển hung dữ. Đó là con đê Ngải Am. Đến nay, trải qua hơn 800 năm không được bồi trúc nhưng nhiều chỗ mặt đê còn rất rộng, hai ô tô có thể tránh nhau dễ dàng. Trên mặt đê quãng chạy qua làng Dương Am hiện có ngôi miếu Ụ, vốn là điếm canh đê do Tô Hiến Thành xây dựng, giao cho quan sở tại cắt cử người canh gác, tuần phòng váo các mùa lũ, triều cường. Khi phát hiện sự cố thì người canh điếm có nhiệm vụ sẽ đốt lửa báo hiệu cấp cứu. Đến thời nhà Mạc (1527 1592) đê Ngải Am bị vỡ, Quế Quận công huy động binh lính, nhân dân và thuyền bè trong các trang ấp gia cố, tu bổ một đoạn đê dài 482 trượng (gần 2000 m). Quế quận công còn cho sửa chữa điếm canh thành miếu Ụ. Đến nay tòa miếu cổ còn bảo lưu được câu đối:


'Lê Vĩnh Thịnh thất tải ký trú thạch đê


Nguyễn Bảo Đại tam niên trùng tu miếu vũ'


Dịch nôm là: Triều Lê niên hiệu Vĩnh Thịnh miếu dựa trên đê đá, triều Nguyễn thời vua Bảo Đại năm thứ ba miếu thần được trùng tu sửa chữa.


Dân làng Cổ Am cảm công đức của Thái úy Tô Hiến Thành đã giúp dân đắp thành công đê đá Ngải Am đã lập đình miếu thờ ông ngay trên nền dinh thự cũ ở thôn Thượng Am gọi là đình Thượng và suy tôn Tô Hiến Thành là Thành Hoàng thôn Thượng xã Cổ Am. Đình Thượng thờ Tô Hiến Thành là một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp mang phong cách thời Nguyễn. Ở đây, bên cạnh ban thờ Tô Hiến Thành còn có ban thờ đức Thiên Quan, đấng thiên thần đã phù giúp Tô Hiến Thành đắp đê trị thủy.


Quan niệm dân gian cho rằng: Tô Hiến Thành là ông tổ của ngành thủy lợi nước ta, người có công lớn trong việc trị thủy, đắp đê, ngăn mặn, mở mang đất đai. Ông được Vua Lý phong làm Thành hoàng của các làng Cổ Am, Tiên Am, Đông Am, Lạng Am thuộc huyện Vĩnh Lại xưa (Vĩnh Bảo nay).


Hiện nay Tô Hiến Thành được thờ trang trọng ở miếu Tràng, một di tích kiến trúc nghệ thuật cổ kính và nguy nga nhất làng Cổ Am. Đến nay dân làng Cổ Am còn giữ được 7 đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn (1802 1945) phong Tô Hiến Thành là Thượng Đẳng Thần dưới các thời Thiệu Trị năm thứ 6, Tự Đức năm thứ 3 và 33, Đồng Khánh năm thứ 2, Thành Thái măm thứ 2, Duy Tân năm thứ 3, Khải Định măm thứ 7.


                                                                                       PV. Thi Thư viện KHTH Hải Phòng


                                                                                                       sưu tầm, biên soạn

Facebook zalo

Các tin đã đưa