Miếu Tràng- Bảo tàng của làng quê

Miếu Tràng- Bảo tàng của làng quê




    Miếu cây Sanh là tên người dân thường dùng để gọi nhắc đến miếu Tràng ở thôn Minh Khai, xã Cổ Am (huyện Vĩnh Bảo). Miếu nổi tiếng khắp vùng vì sự linh ứng, thu hút du khách bởi kiến trúc cổ, lưu giữ nhiều di sản quý hàng trăm năm tuổi không chỉ có giá trị về văn hóa mà còn giá trị về lịch sử.
Công trình kiến trúc cổ:
    Miếu Tràng nằm trên tuyến đường trục chính của xã Cổ Am, xây dựng trên thế đất đẹp vô cùng hiếm gặp.
Bước vào sân miếu dường như không gian cách biệt hoàn toàn với nhịp sống hối hả, vội vã bên ngoài với tiếng còi xe, bụi đường mù mịt. Lòng người yên bình, tĩnh lặng đến lạ thường. Nhẹ thả bước tiến sâu vào vào sân miếu, du khách thấy cổng tam quan uy nghiêm, phía trên có lưỡng long chầu nguyệt. Hai đỉnh trụ đắp hình búp sen. Mặt trước cổng có đề 4 chữ Hán: Chính khí hạo nhiên. Theo ông Hoàng Đình Tíu, thành viên Ban quản lý di tích miếu Tràng, trên toàn miền Bắc chỉ có 2 nơi được đề bốn chữ này. Một là ở đền Hùng (tỉnh Phú Thọ) và nơi thứ 2 là tại miếu Tràng. Bốn chữ “Chính khí hạo nhiên" có nghĩa là mảnh đất địa linh, hội tụ khí tốt và sản sinh và nuôi dưỡng nhiều người tài giỏi giúp dân, giúp nước. Nhiều cụ cao niên trong làng tự hào, do miếu Tràng tọa lạc trên thế đất hiếm nên con cháu trong làng học hành thành đạt, mang nhiều vinh quang về cho quê hương. Có thể vì thế, mà Cổ Am từ xa xưa được biết đến là “Đệ nhất đất Việt” với câu ca: “Đông cổ Am, Nam Hành Thiện”. Bước qua cổng rêu phong cổ kính, du khách như lạc vào một thế giới tâm linh.
    Theo như các bút tích lưu lại, miếu Tràng xây dựng từ thế kỷ 14. Tuy nhiên, trải qua biến thiên của thời gian, đến thời Nguyễn, miếu được trùng tu, khôi phục và mang phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn với hai tòa tiền đường, mỗi tòa 5 gian, cấu trúc theo kiểu “trùng thềm điệp ốc” và một gian hậu cung luôn được đóng kín bởi lớp cửa gỗ chạm thủng hình chữ “thọ" sơn son thếp vàng. Dần vào hai tòa tiền đường là hai lầu được xây nổi làm gác chuông, gác khánh. Mái lợp ngói vảy rồng, uốn cong bốn góc mềm mại, chạm trổ rồng, phượng, cửa gỗ lim theo lối “cửa tùng cung khách" quen thuộc trong kiển trúc dân gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ với những đường nét điêu khắc, chạm khắc vô cùng tinh tế. Hai bên tả hữu là hai dãy nhà giải vũ 5 gian đối xứng nhau qua sân tế, tạo thành khuôn viên khép kín. Ở giữa hai tòa giải vũ là hồ bán nguyệt, nước hồ quanh năm trong mát. Sân miếu là những tượng đá, linh vật như voi, hổ, rùa càng làm tăng thêm vẻ uy nghiêm, linh thiêng của ngôi miếu.
Lưu giữ nhiều giá trị đặc sắc:
    Hai nhà giải vũ, mỗi nhà 5 gian, lợp ngói vảy rồng, các cột đều được làm bằng đá xanh, chạm khắc tùng, cúc, trúc, mai. Vào thời phong kiến hai nhà giải vũ là nơi quan chức trong tổng, trong xã họp việc làng. Đến thời kỳ kháng chiến, nhà giải vũ được dùng làm nơi chứa trị vết thương cho bộ đội, dân quân du kích. Nơi đây cũng từng lá nơi học chữ, ươm mầm cho những tài năng, những người con kiệt xuất của xã Cổ Am. Đến nay, nhà giải vũ là nơi trò chuyện của các cụ cao niên trong làng mỗi khi chiều xuống.
    Những đường nét chạm khắc tinh tế trên các cột kèo, xà với các đôi câu đối cổ, hoành phi và bộ bát biểu có những chạm khắc tinh xảo, hiếm có. Có điều khác biệt giữa miếu Tràng so với nhiều ngôi đình, miếu khác của Việt Nam. Ngoài thờ thành hoàng của làng, miếu còn phối thờ đức Khống Tử (người sáng lập ra đạo Nho). Theo cách lý giải của các bậc cao niên trong làng, việc thờ Khổng Tử tại miếu có thể là do Cổ Am là mảnh đất có truyền thống hiếu học, đời nào cũng có người đỗ đạt cao và ra làm quan nên việc thờ Khổng Tử là điều dễ hiểu và càng khuyến khích việc học hành.
    Nhân vật thứ 2 được thờ tại miếu Tràng đó là Thái úy Tô Hiến Thành (đời Lý). Theo như những sử liệu còn ghi chép và lưu giữ tại miếu, năm 1162, ông dược triều đình cử đến các vùng Quảng Yên, Hải Phòng, Thanh Hóa để trị thủy, đắp đê, khai phá đất đai, trị an vùng Duyên hải. Trong một lần kinh lý qua khu vực cổ Am ngày nay, ông thấy đê điều xuống cấp, nước mận xâm nhập, ảnh hưởng đến mùa màng. Với lòng tận tâm về trách nhiệm, được sự ủng hộ của dân về thần linh báo mộng, giúp đỡ, ông đã huy đông quân, dân đắp đê Ngải Am ngăn nước mặn mà dấu tích còn đến ngày nay. Nhớ công ơn của Tô Hiến Thành, dân làng Cổ Am lập đền thờ, tôn ông làm Thành Hoàng hộ quốc an dân lại khu vực Tràng Thọ. Hiện ngai và bài vị của ông được thờ trang trọng tại miếu Tràng. Nơi đây cũng lưu giữ 7 đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn phong Tô Hiến Thành là Thượng Đẳng Thần.
    Cùng với Khổng Tử, Thái úy Tô Hiến Thành, miếu Tràng còn thờ một người làng Cổ Am xưa là tướng quân Phạm Chấn, ông là người có công chống giặc Nguyên - Mông xâm lược lần thứ hai được triều Trần phong “Thái úy trấn uy hầu”. Khi giặc bị đánh tan, ông cáo quan về quê. Gặp lúc mất mùa, nhân dân đói kém, ông đã đem lương thực phát cho dân làng. Sau khi ông qua đời, dân đã tôn ông làm Thành Hoàng làng.
    Được thờ uy nghiêm trong hậu cung là Tống Thái Hậu nhà Tống (Trung Quốc). Theo truyền thuyết, khi Tống Thái Hậu tử tiết vì dân tộc thi thể bả trôi qua vùng biển Cổ Am và được nhân dân lập đền thờ bà. Khi quân Mông-Nguyên xâm lược Đại Việt bà báo mộng giúp Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cách chống giặc. Tưởng nhớ công ơn của bà, dọc dải bờ biển Việt Nam, các triều đại cho nhân dân lập đền, miếu thờ Tống Thái Hậu và được phong làm Hải Thần coi giữ 12 cửa bể nước ta.
    Hiện miếu Tràng bảo tồn và lưu giữ nhiều di vật quý giá, không chỉ có giá trị về văn hóa mà còn có giá trị về lịch sử. Ngoài hương án kiểu chân quỳ dạ cá, hai bộ kiệu bát cống, nhiều cỗ ngai, bài vị, khám có niên đại vào cuối thế kỷ 19. Tại miếu còn nhiều đồ tế khi bằng đồng, gốm, sứ như chấp kích, đỉnh, chiêng, 25 bản sắc phong của các vương triều phong kiến ban cho các vị thành hoàng cũng được giữ gìn, bảo quản cân thận.
Năm 1999 miếu Tràng được công nhận là di tích lịch sử quốc gia.
(Nguồn: Miếu Tràng- Bảo tàng của làng quê/Long Giang//Báo Hải Phòng cuối tuần. - ngày 11/09)



Facebook zalo

Các tin đã đưa