HUYỀN THOẠI MỘT VỊ TƯỚNG - Kỳ 1: Quê hương, gia đình và hoạt động thời trai trẻ

HUYỀN THOẠI MỘT VỊ TƯỚNG

                                                         Kỳ 1: Quê hương, gia đình và hoạt động thời trai trẻ

            Trung tướng Nguyễn BÌnh là người Cộng sản kiên cường, vị tướng quả cảm, nghĩa hiệp, giàu đức hy sinh, có tài thao lược. Tên tuổi của ông gắn liền với Chiến khu Đông Triều, chiến khu Duyên Hải, với Sài Gòn Đông Nam bộ và Nam bộ. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bình là những tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo...

Trung tướng Nguyễn Bình tên thật là Nguyễn Phương Thảo, sinh năm 1908 tại thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ông là con trai thứ ba trong gia đình nông dân, có năm con nên người làng thường gọi ông là “Ba Thảo”.

Hồi nhỏ Ba Thảo thông minh, ham học, thích luyện tập võ nghệ và học tới năm thứ hai ban Thành Chung ở Hải Phòng. Ông rất mê đá bóng. Có lần trong trận đấu, không chịu được sự gây gổ của một học sinh người Pháp, Ba Thảo cùng bạn bè đánh nó trọng thương và bị đuổi học. Được ảnh hưởng người anh ruột là Nguyễn Thế Nức, ông sớm tham gia phong trào yêu nước: Năm 1952, tham gia tổ chức học sinh trường Kỹ nghệ Hải Phòng bãi khóa để phản đối chế độ hà khắc của thực dân Pháp; năm 1926 tham gia học sinh làm lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh.

Sau khi bị đuổi học, Ba Thảo làm thợ giặt là rồi vào làm công nhân tàu biển Hãng Đầu Ngựa. Thời gian này ông có điều kiện giao lưu tìm hiểu con người và mảnh đất phương Nam. Ở Sài Gòn, Ba Thảo làm quen với nhà văn giang hồ kì hiệp Sơn Vương (Trương Văn Thoại) và nhiều tay hảo hán Bình Xuyên.

Những ngày ở Sài Gòn, lúc rỗi rãi Ba Thảo thường đọc tiểu thuyết đăng trên tờ Đông Pháp Thời Báo, kí tên: Nam Kiều. Ông đọc thấy văn hay nên đến tòa soạn tìm gặp tác giả. Tại đây Ba Thảo được biết Nam Kiều là nhà báo Trần Huy Liệu, Chủ bút tờ báo; là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, hoạt động ở miền Nam. Từ đó, ông càng gắn bó với Trần Huy Liệu, coi là người anh đồng hương kiêm người thầy. Năm 1928, ông gia nhập Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, chống thực dân Pháp xâm lược.

Chi bộ Việt Nam Quốc dân đảng Nam kỳ được thành lập; Trần Huy Liệu làm Bí thư; Ba Thảo được bầu vào Ban chấp hành, lúc ông tròn 20 tuổi. Một năm sau do sơ suất, bọn mật thám Pháp kéo đến vây lúc chi bộ đang họp. Trần Huy Liệu, Ba Thảo bị địch bắt. Vài tuần sau chúng đưa hai người ra hầu tòa lĩnh án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo, ở đây Ba Thảo, Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Đức Chính, Trần Huy Liệu... được tiếp xúc với những tù Cộng sản như: Nguyễn Văn Cừ, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt. Dần dần, các ông nhận thấy chỉ có người Cộng sản mới thành công trong công việc lãnh đạo quần chúng lao động đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Vì vậy mọi người đứng hẳn sang hàng ngũ những người cộng sản để tích cực đấu tranh.

Do có sự phân hóa nên mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt trong Việt Nam Quốc dân Đảng, dẫn đến phe phái thanh trừng lẫn nhau. Ba Thảo, Trần Huy Liệu và Tưởng Dân Bảo đứng đầu hành trong danh sác bị bọn cực đoan thành trừng về tội “phản Đảng”. Trước hiện trạng này, Ba Thảo rất cảnh giác: đêm đêm thao thức đề phòng, nằm trong thế thủ.  Song thức ba đêm liền thì mệt quá, ông vừa đặt lưng xuống ngủ say. Hung thủ xuất hiện, dùng cán bàn chải đánh răng đâm mạnh vào mắt trái của Ba Thảo, ông kêu rú lên một tiếng và từ đó chỉ còn lại mắt phải. Tuy vậy, Ba Thảo thấy nhận thức của mình rõ hơn trước; biết gạn đục khơi trong. Ông đã có ánh sáng của chính Đảng vô sản soi rọi con đường cứu nước mà bản thân đang lựa chọn.

Năm 1935, Ba Thảo được ra tù. Địch đưa ông về quản thúc tại quê nhà. Sau ít ngày đoàn tụ gia đình, ông lại bắt đầu hòa m,ình vào phong trào đấu tranh, hăng hái hoạt động cách mạng, bất chấp sự quản thúc của chính quyền địch ở địa phương. Vốn cởi mở, nói chuyện có duyên, đầy tính thuyết phục, ba Thảo quy tụ được nhiều thanh niên có ý chí đánh đuổi thực dân, đến nhà luyện tập võ nghệ, hát hò, bình thơ cách mạng.

Năm 1943, Ba Thảo được Trung ương giao nhiệm vụ phụ trách mua sắm vũ khí cho cách mạng ở Hà Nội, Hải Phòng. Đây là nhiệm vụ xuyên suốt của ông cho đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

Nhận sự phân công mua sắm vũ khí cho cách mạng với ý thức và cách làm độc đáo, táo bạo, rất thực tế, đạt hiệu quả cao.Ông cho rằng, tìm đâu ra tiền nhiều mà mua súng đạn cho đủ dùng; phải tiến hành lẫy vũ khí địch để trang bị cho ta. Phương sách phổ biến nhất của Nguyễn Bình là vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm, tìm cách hạ các đồn địch mới lấy được nhiều súng đạn. Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/2945. Lợi dụng thời cơ này, Nguyễn Bình báo cáo xứ ủy, sẽ đánh đồn Bần Yên Nhân, có trung đội lính khố xanh do một viên sĩ quan Pháp chỉ huy. Cấp trên đồng ý. Giờ xuất quân vào đêm 12/3/1945. Đi đầu đội quân đóng giả là Nguyễn Bình, Ngọc Vân, Trần Phong, với quân phục sĩ quan Nhật, có đủ trang bị, lon và băng đeo tay. Trận dánh diễn ra chớp nhoáng, nhờ nội ứng làm đúng quy ước ám hiệu. Sau tiếng pháo nổ thay súng, cổng đồn được mở toang; quân ta xông vào địch không kịp chống đỡ. Kết quả, ta thu 24 dúng trường và sáu hòm đạn. Trận này được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá là: “Một trận đánh du kích kiểu mẫu ở đồng bằng Bắc bộ”.

Nguồn “Huyền thoại một vị tướng/Chi Phan// Người cao tuổi.- 2016.- Số 195.- Ngày 7 tháng 12.-Tr.9

 

 

Facebook zalo

Các tin đã đưa