“Thế giới của tôi là thành phố công nhân”
Lê Đại Thanh, sinh ngày 8-5-1907 tại Hải Phòng. Nguyên quán ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Ngày 17-7-1996, nhà thơ Lê Đại Thanh qua đời tại Hải Phòng. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957, hội viên Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng từ những ngày đầu thành lập.
“Thế giới của tôi là thành phố công nhân đầy những đầm ao…”:
Người Hải Phòng mỗi khi đi qua phố Cầu Đất thường có thói quen nhìn về những dãy nhà cũ bên tay phải. Nơi ấy từng là chốn ở của gia đình nhà thơ Lê Đại Thanh. Lê Đại Thanh xuất thân từ gia đình trí thức. Trong lý lịch hội viên Hội Nhà văn, ông viết: “Mẹ tôi đẻ ra tôi sau những năm Nga – Nhật chiến tranh (1907) trên bờ con sông Đào, Hải Phòng. Thế giới của tôi là cái thành phố công nhân mới tạo lập đầy những đầm ao, đầy những tiếng ếch, tiếng ễnh ương, tiếng hát của Tây say, của đám lính thủy Pháp đổ bộ vào các nhà chứa… Tôi yêu tha thiết cái thế giới nhỏ bé của tôi, cái trường học do ông Thông Vôi lập ra ở phố Cầu Đất. Tới năm 1914-1918 Đại chiến thế giới lần thứ nhất thì tôi mồ côi mẹ.
Tình yêu quê hương với Hải Phòng của ông được định hình khi còn trẻ thơ. Và sau này, trong tất cả chặng đường cuộc đời và sáng tác, Hải Phòng luôn ở trong ông, thể hiện trên từng trang viết của ông, sáng tác thơ, kịch của ông. Càng minh chứng rõ hơn cho khẳng định mà cố nhà thơ sinh thời đã nói “Thế giới của tôi là thành phố công nhân…”. Khi ấy, Hải Phòng mới được tạo lập. Khi ấy, Hải Phòng bần hàn, cùng khổ, vất vả với vô vàn cuộc sống lao động. Và khi ấy, Lê Đại Thanh còn là một cậu bé.
Lớn lên, Lê Đại Thanh vào học Trường Bonnal, nay là Trường THPT Ngô Quyền trên phố Mê Linh thuộc quận Lê Chân. Năm 1922, ông tốt nghiệp, nhận chứng chỉ Certificat và lên Trường Bưởi, Hà Nội học tiếp để nhận bằng Diplôme. Cuộc đời sáng tác của ông bắt đầu từ năm 1922 với cuộc thi thơ “Ngàn năm văn vật đất Thăng Long” của Báo Đông Pháp. Tiếp đó, ông thi vào ngành sư phạm. Năm 1927, ông được cử về dạy học ở Nam Định. Năm 1932, ông di chuyển lên dạy học tại Hòa Bình. Năm 1934, Lê Đại Thanh là giáo viên thuộc tỉnh Cao Bằng. Và đến năm 1941, ông trở về quê hương Hải Phòng để dạy học.
Nhà thơ đa tài:
Cùng với nghề dạy học, Lê Đại Thanh viết báo, làm thơ, viết kịch và diễn kịch. Ông được nhận giải thưởng Báo Ngày nay của Tự lực Văn đoàn với vở kịch “Hai người trọ học”. Vở kịch ấy được trao thưởng cùng năm 1936 với “Kim Tiền” của Vi Huyền Đắc và “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng. Ông tham gia thành lập nhiều đoàn kịch như: “Lê Đại Thanh - Lan Sơn”, “Gió biển”. Trước Cách mạng Tháng Tám, Lê Đại Thanh còn tham gia đóng kịch trong ban kịch của Thế Lữ. Ông thủ vai Trần Thiết Chung, nhân vật chính trong vở “Kim Tiền” của Vi Huyền Đắc, diễn lần đầu tại Nhà hát Hải Phòng năm 1938. Năm 1946, Lê Đại Thanh được cử làm Hội trưởng Hội Văn học Hải Phòng. Năm 1948, ông tham gia Đại hội thành lập Hội văn học nghệ thuật Việt Nam và được cử vào Ban Thư ký đại hội. Trong thời gian này Lê Đại Thanh sáng tác hai vở kịch nói Những cái chết anh hùng và Người mẹ tiễn con ra trận.
Trong những năm 1936-1945, tên và bút danh của ông thường xuất hiện trên các tờ báo “Đông Tây”, “Ngày nay”, “Chuyện đời”. Trước đó, từ năm 1940, Lê Đại Thanh tham gia nhiều phong trào hoạt động cách mạng. Năm 1945, ông bị chính quyền Nhật bắt giam 3 tháng. Ông tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám và được cử phụ trách công tác tuyên truyền của Ủy ban Cách mạng lâm thời Hải Phòng. Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động ở Liên khu 3, từng là Phó giám đốc Sở Tuyên truyền Liên khu 3, sau đó chuyển sang hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc.
Sau năm 1954, Lê Đại Thanh là cán bộ biên tập tuần báo Văn nghệ. Sau đó ông được chuyển về sống và sáng tác ở Hải Phòng cho đến khi qua đời. Những tác phẩm được xuất bản của Lê Đại Thanh gồm: “Hai người trọ học” (hài kịch, 1936), “Chiến thắng Đông Đô” (kịch thơ), “Chương Dương hành khúc” (thơ, 1945), “Những ngôi sao biển” (thơ, NXB Hải Phòng 1986).
Lê Đại Thanh sáng tác không nhiều nhưng mỗi một bài thơ của ông đều để lại ấn tượng trong lòng người đọc bởi những triết lý sâu xa như một lời trao gửi nhỏ nhẹ với thế giới nhân sinh. Những bài thơ như “Di chúc”, “Thi sĩ và thơ”, “Sư tử và mặt trời”, “Tâm sự cùng nhân loại”, “Thời gian”, “Tôi yêu chuyện cổ tích nước tôi”, “Đám cưới chuột”, “Ngây thơ”, có thể coi như điển hình phong cách thơ của Lê Đại Thanh.
(Nguồn: “Thế giới của tôi là thành phố công nhân”/Thùy Linh// Báo Hải Phòng Online. - ngày 7/12)

