1. Độc đáo Lễ hội Minh Thề, di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia
Ngày
1-3 (tức ngày 14 tháng Giêng âm lịch) tới đây, tại chùa, đình làng Thiên Phúc,
làng Hòa Liễu, xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch sẽ công bố quyết định công nhận Lễ hội Minh Thề là di sản văn
hóa phi vật thể quốc gia. Đây là lễ hội làng độc đáo “bậc nhất vô nhị” trong cả
nước, có từ thế kỷ XV.
Xã
Thuận Thiên là địa phương có sắc thái văn hoá riêng và rất phong phú trong
vùng, được biểu hiện qua các tín ngưỡng tôn giáo, hoạt động lễ hội đình chùa...
Những tập tục truyền thống tốt đẹp từ lâu đời luôn được người dân nơi đây gìn
giữ và phát huy, trong đó tiêu biểu là Lễ hội Minh Thề.
Trải
qua thời gian và những thăng trầm của lịch sử, năm 2003, Lễ hội Minh Thề được
chính quyền địa phương và người dân địa phương khôi phục lại, giữ nguyên được
giá trị văn hóa. Nhiều năm trở lại đây, hội làng mỗi năm lại thu hút thêm đông
đảo người dân, du khách thập phương và cũng được chính quyền địa phương dành sự
quan tâm đặc biệt hơn.
Tại
Lễ hội Minh Thề, ban thờ được sắp đặt đơn giản, nổi bật là chiếc mũ quan đặt
trang trọng lên chính diện ban thờ. Những người có chức sắc trong làng tương ứng
với các chức Lý trưởng, Phó lý... thời xưa sẽ tham gia thề nguyện.
Một
con dao nhọn sắc, một con gà trống thiêng và một bình rượu được đặt ngay dưới
ban thờ chuẩn bị cho nghi lễ. Mọi thủ tục diễn ra rất nhanh gọn, từ động tác đi
lại của đội lễ đến các phần dâng lễ hay nghi thức đều được tối giản theo mong
muốn tiết kiệm, hiệu quả nhưng không kém phần trang nghiêm.
Phần
nghi lễ cắt tiết gà hòa rượu ăn thề là phần quan trọng nhất. Sau nghi lễ tế thần,
vị địa diện tư văn sẽ dõng dạc đọc “Miêng thệ”: ...“Dĩ công vi công, thần linh ủng
hộ. Dĩ công vi tư, thần linh đả tử” (Ai dùng của công xây dựng việc công xin thần
linh ủng hộ, ai dùng của công vào việc riêng xin thần linh trừng phạt) y như lời
thề. Mọi người tham dự cùng hô vang “y như miêng thệ”. Sau khi các vị chức sắc
trong làng uống rượu thề xong, những người tham gia chứng kiến cũng sẽ uống rượu
thề.
Theo
sử sách ghi lại, Lễ hội Minh Thề (hay còn gọi là Miêng Thệ) có từ năm 1561 khi
Thái Hoàng Thái hậu họ Vũ (vợ Thái Thượng hoàng Mạc Đăng Dung) đến lập ấp Lan
Niểu (nay là thôn Hòa Liễu), vận động dân làng mở rộng diện tích chùa, làm mới
tượng Phật.
Bà đã xuất tiền mua được 25 mẫu, 8 sào, 2 thước
ruộng. Sau đó, những người dân trong làng thấy việc cung tiến ở chùa mang lại
phúc đức nên cung tiến cả ruộng vườn vào chùa. Diện tích chùa và đất canh tác
lên tới 47 mẫu, 8 sào, 2 thước.
Trong
thời gian xây dựng, ngoài diện tích xây chùa, một phần diện tích ruộng vườn được
chia cho những người trông chùa canh tác, diện tích còn lại được cho cấy khoán.
Sản phẩm thu được chia cho người nghèo trong vùng. Số lương thực dư thừa hàng
năm được tích trữ lại bằng thóc, giao cho người có chức sắc trong làng giữ.
Để
không xảy ra tình trạng tham nhũng của công, Thái Hoàng Thái hậu cùng với dân
làng đã lập ra Hịch văn Hội Minh Thề. Theo đó, đối tượng cụ thể là những người
đứng đầu trong làng (Lý trưởng, Phó lý, Chánh hội, Phó hội, Trương tuần).
Người
từ 18 tuổi trở lên trong làng đều tham gia cùng uống rượu tuyên thệ trước sự chứng
kiến của đông đảo nhân dân và du khách thập phương, các vị bô lão và nhiều người
dân trong làng thề trước các vị thần linh nếu lấy của công phục vụ việc công
thì được thần linh ghi nhận, nhược bằng tham công lấy của công làm của tư thì
nguyện cầu bị chư thần linh trị tội.
Từ
các cụ già đến người trẻ phải dạy bảo con cháu không được tham nhũng, nếu không
nguyện cầu bị chư thần linh trị tội. Những ai trong làng bao che tội phạm, chứa
chấp của gian tà cũng sẽ bị thần linh trừng phạt...
Ông
Nguyễn Trọng Khải, Chủ tịch UBND xã Thuận Thiên cho biết, năm nay là năm thứ 16
kể từ khi lễ hội được khôi phục và vinh dự được công nhận là “Di sản văn hoá
phi vật thể quốc gia”. Tuy nhiên do là lễ hội của làng nên năm nay cũng chỉ có
Trưởng, phó thôn, các cụ bô lão và nhân dân thề “không tham nhũng” theo đúng
nghi lễ của lễ hội. Các đại biểu là lãnh đạo cao hơn chỉ đến dự chứ chưa mở rộng
thành phần để thề...
Đây
là lễ hội góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, đạo đức, lối sống lành mạnh,
trong sạch, nhấn mạnh triết lý làm quan là nô bộc của dân, liêm khiết, công
tâm, điều mà hiện nay Đảng ta đang vô cùng chú trọng.
Đông
đảo người dân đều có chung một mong muốn, lễ hội sẽ có sự tham dự của các vị
lãnh đạo thành phố về cùng uống chung với nhân dân chén rượu thiêng và cùng cất
vang lời thề “chí công vô tư”- nguyện không tham nhũng...
(Nguồn:
Độc đáo Lễ hội Minh Thề, di sản văn hóa phi vật thể quốc gia //Văn Thịnh
//http://cand.com.vn .- Ngày 24/2/2018)
2. Bịt mặt xem hát đúm
Một vùng quê ven sông
Bạch Đằng ở thành phố Hải Phòng còn lưu giữ trò hát đúm (hát ví, hát đối đáp) mỗi
dịp xuân về, thu hút hàng nghìn người xem, trong đó đa phần là phụ nữ bịt mặt.
“Ngày xưa có mà hát từ sáng đến tối”:
Đến
xã Phả Lễ (huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng) một chiều xuân, chúng tôi thấy
trong sân ủy ban nhân dân hai nhóm nam nữ khăn đóng áo dài đang hát đối đáp.
Người “cầm đầu” nhóm nam, ông Đinh Khắc Lâm cất tiếng: “Nhà nàng gác phượng lầu
vàng có không/Cổng nhà có cây nào cao/Cột quân cột cái có bao nhiêu hàng/Bao
nhiêu xà dọc xà ngang?”. Bên nữ, bà Đinh Thị Nhịnh, tuổi đã 60, dẫn đầu đội nữ,
đáp lời: “Nhà em giầu lắm anh ơi/Đá hoa em cất một nơi, Đá xanh em để ngoài trời
khoe khoang/Cổng thời em đúc bằng vàng/Cột lim chạm bạc, xà ngang bịt đồng”.
Đó
là một phần của bài “Hỏi nhà”, một bài hát đúm thời cổ với giai điệu không có
cao độ và tiết tấu rõ ràng, cũng không có nhạc đệm, nhưng khi hai đội hát đến
đâu thì hàng nghìn khán giả phía dưới cười rần tới đấy. Trong số khán giả, các
phụ nữ trung niên trở lên hầu như đều bịt kín mặt như đang đi làm đồng, dù hôm ấy
mới mùng 5 tết, là ngày huyện Thủy Nguyên tổ chức cuộc thi hát đúm thường niên.
Chúng
tôi gặp ông Đinh Khắc Thạo, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã. Nghe nhắc đến hát
đúm, ông tự hào nói: “Dân vùng này say hát đúm hơn cả karaoke. Riêng xã tôi thì
trường cấp 1, cấp 2 đều dạy hát đúm, một cựu chiến binh 90 tuổi là ông Đinh Hữu
Nga nay vẫn soạn lời các bài hát đúm, ngay cổng ủy ban kia cũng có một nghệ
nhân”. Nghệ nhân mà ông Thạo quảng cáo là bà Đinh Thị Ngà, 42 tuổi, bán hoa quả
trước ủy ban. Cười tươi khi tôi hỏi chuyện hát đúm, bà Ngà lấy ra một cuốn sổ
chép đầy các bài hát, nói là để tập lúc vắng khách, còn hát luôn vài đoạn cho
tôi quay clip, rồi chỉ “vào nhà ông bà Lê Khắc Đức - Vũ Thị Vịnh ở xóm 2 mà hỏi
chuyện hát đúm giao duyên ngày xưa nó như thế nào”.
Ông
Đức, 75 tuổi, từng là Chủ nhiệm câu lạc bộ hát đúm Phả Lễ, nhưng mới bị ngã phải
nằm liệt giường. Thấy nói hát đúm, mắt ông sáng lên: “Tôi hát từ năm 18 tuổi,
nay già rồi chỉ nhớ được dăm chục bài chứ ngày xưa thì có mà hát từ sáng đến tối
chả hết”. Rồi ông hát thật: “Bây giờ anh mới gặp nàng. Bằng giời cho cái nén
vàng trên tay”. Hỏi chuyện hai ông bà lấy nhau như thế nào, ông cười: “Bà ấy
hát cũng hay, hôm ấy tôi gặp ở cổng chùa, nghe tiếng hát mê quá nên hôm sau lại
đến, lại gặp, lại hát: Gặp nhau ở đám hội này/Anh em thì vắng, u thầy thì xa/Lấy
ai ngăn chặn chúng ta/Mặt muốn chạm mặt, tay đà cầm tay. Thế rồi tôi giật cái
khăn che mặt của bà ấy ra, thấy một cô gái đẹp quá, liền hát: Bây giờ nàng giở
ra về/Mình anh thì biết nguyện thề với ai/Xa xôi năm tháng đường dài/Nàng về
anh biết lấy ai chuyện trò. Bà ấy họa lại: Chàng về mau chóng mà ra/Để em chờ đợi
cả ba canh dầy. Thế rồi hai bên lấy nhau, ở đến giờ”.
Thua cuộc mới cho xem mặt:
Trong
khi ông Đức nói chuyện, bà Vịnh nằm ở giường bên và trùm một cái khăn đen, chỉ
hở mũi và đôi mắt. Bà nói: “Hồi trẻ ông ấy hát hay, đẹp trai. Mỗi lần hát thì
người ta chen nhau xem. Tôi cũng mê nên ông ấy ngỏ lời là ưng ngay”. Về việc ở
trong nhà vẫn bịt khăn kín nửa mặt, bà bảo: “Thời bà tôi, mẹ tôi đã bịt rồi nên
tôi quen nếp, trước chỉ có khăn vải diềm bâu đen mua ở chợ Phả, nhưng bịt suốt
ngày nên da ai cũng trắng như bông”.
Tạm
biệt đôi trai tài gái sắc một thuở, tôi sang xã Lập Lễ kế bên cũng nổi tiếng về
hát đúm và gặp ông Vũ Nhang, 60 tuổi, ở thôn Lạch Sẽ. Ông Nhang kể: “Hồi thanh
niên tôi cũng hát đúm theo kiểu truyền thống, đến năm 1979 - 1980 mới thôi. Hát
thua thì mất nón, mất ô, chúng tôi thì toàn chạy làng nhưng nếu thắng thì cứ thế
mà giật khăn bên nữ. Mê lắm, nên có đôi hát từ sáng đến tối, say như bọn trẻ
tán nhau trên Facebook, Zalo bây giờ”.
Đối
diện nhà ông Nhang là nhà Chủ nhiệm câu lạc bộ hát đúm Lập Lễ Đinh Như Hăng, chủ
một cửa hiệu đồ gỗ cực lớn. Bỏ mặc khách đến xem hàng, ông Hăng kéo tôi vào nhà
trong. “Sống là phải có hát đúm, chứ không hát thì có tiền cũng chẳng làm gì”,
ông nói, trong khi bà vợ tên Đinh Thị Minh “tố”: “Ông ấy hát từ thanh niên, giờ
59 tuổi rồi vẫn tụ tập bạn bè hát suốt”. Ông Hăng phân trần: "Chúng tôi tập
đấy chứ, xã nào cũng có câu lạc bộ, cũng tập luyện đàng hoàng, mình không tập
thì sao có chuyện 5 lần thi thì 3 lần xuất sắc, 2 lần giải nhất". Rồi ông
nói thêm: "Ở làng thì tôi là anh buôn gỗ thế thôi. Nhưng cứ lên YouTube gõ
tên tôi thì có mà ra đầy".
Về
giá trị nghệ thuật của hát đúm, tôi được nhạc sĩ Sĩ Vịnh, Chủ tịch Hội Âm nhạc
Hải Phòng, chia sẻ: hát đúm không phức tạp, không “học thuật” và không cần người
hát phải biết âm nhạc căn bản. Nhưng đây là hình thức sinh hoạt văn hóa dân
gian độc đáo và đặc biệt là được người dân địa phương ưa thích. Ông Đinh Viết
Hưởng, người từng học thanh nhạc và là công chức văn hóa xã Lập Lễ thì có vẻ
bênh vực: “Nghe đơn giản thế thôi, nhưng cũng phải có chất giọng dày, ấm mới
hát được. Cả xã này nhiều người biết hát nhưng hát hay thì có mấy đâu”.
Giải
thích về tục bịt mặt gắn liền với hát đúm, ông Hưởng kể: Truyền thuyết nói vùng
này xưa chiến tranh nhiều nên đàn bà sợ ma và bịt mặt để các oan hồn không thấy
mà nhập vào người. Nay thì họ bịt mặt để tránh nắng, giữ da. Chủ tịch Hội đồng
nhân dân xã Lập Lễ Nguyễn Văn Huy kể có chuyện một số cụ đến ngày cưới mới biết
mặt vợ...
Hát
đúm, hay hát ví, hát đối là sinh hoạt dân gian rất phổ biến của người dân vùng
đồng bằng Bắc bộ và đặc biệt ở vùng Tổng Phục, thuộc huyện Thủy Đường xưa (nay
là các xã Lập Lễ, Phả Lễ, Phục Lễ, Tam Hưng của huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải
Phòng). Tại đây, các nhóm (đúm) nam nữ thanh niên chưa vợ chưa chồng hát đối
đáp để giao duyên. Hát đúm gắn liền với việc bên nam được giật khăn bên nữ để
xem mặt nên mùa hát đúm đầu xuân còn gọi là "hội mở mặt"…
Để
khôi phục sinh hoạt văn hóa này, từ năm 2013, huyện Thủy Nguyên đã tổ chức thi
hát đúm luân phiên trong 4 xã kể trên và mở rộng đến xã Ngũ Lão. Huyện đang
cùng Bảo tàng Hải Phòng làm hồ sơ để trình Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch công
nhận hát đúm là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
(Nguồn:
Bịt mặt xem hát đúm // https://thanhnien.vn .- Ngày 17/2/2018)
3. Ngào ngạt hương vị bánh chưng Thuỷ Đường
Những
ngày này, làng nghề gói bánh chưng truyền thống Thuỷ Đường (huyện Thuỷ Nguyên),
nhộn nhịp bước chân khách phương xa và thương lái tìm về mua, đặt hàng hay đơn
giản trải nghiệm bầu không khí rộn ràng sum vầy cùng gói bánh, vừa trò chuyện
vui vẻ.
Về
làng nghề bánh chưng Thuỷ Đường buổi sáng cuối tháng 11 âm lịch, từ đầu làng đến
các ngõ xóm, cảm nhận rõ không khí tất bật sản xuất vụ Tết. Quanh những chậu đỗ
xanh, gạo nếp, thịt lợn ngồn ngộn cùng chồng lá dong, lá chuối hột có khi chất
cao quá đầu trẻ nhỏ, các mẹ, các cô, các bà cùng con cháu quây quần vừa gói
bánh chưng, vừa trò chuyện như pháo rang. Nào là dự định mấy nhà cùng xóm chung
nhau mổ con lợn tạ đón Tết, cùng nhau trang hoàng đường làng, ngõ xóm. Hay mua
cho thằng Tý, con Dĩn… bộ quần áo mới diện Tết. Có khi chia sẻ với nhau ước
mong năm mới đổi vận làm ăn khấm khá hơn.
Trong
bầu không khí cùng những câu chuyện sực nức vị Tết, trẻ nhỏ lau, xếp lá, đếm và
xâu bánh. Người lớn thoăn thoắt đôi tay đong gạo, đỗ, xếp thịt rồi gói bánh. Dù
“gói vo”, nhưng bánh chưng chiếc nào chiếc nấy vuông vức, đều tăm tắp. Trong
khi đó, cánh đàn ông đảm nhận công việc nặng nhọc hơn là chất củi nhóm lò, luộc,
thêm nước, vớt và ép bánh chưng. Bầu không khí tràn ngập hương vị đặc trưng
không lẫn vào đâu được của những mẻ bánh chưng chín rền. Vị thơm ngọt của gạo nếp,
đỗ xanh được ninh 10-12 tiếng liên tục. Vị cay nồng của hạt tiêu. Vị ngậy ngậy
của thịt. Vị nồng nàn của lá chuối hột. Tất cả quấn quện, đan xen, thấm đượm và
bổ trợ lẫn nhau tạo vị đặc trưng của món ăn truyền thống tương truyền xưa kia
được hoàng tử Lang Liêu được thần “gợi ý”, sau đó sáng tạo ra cách chế biến
dâng vua Hùng.
Theo
cô Vũ Thị Thuý, 61 tuổi, ở thôn Bấc 2, ở Thuỷ Đường chẳng ai biết nghề làm bánh
chưng có từ bao giờ. Chỉ biết, bố mẹ truyền nghề cho con. Lớp con cái dạy lại
cho cháu. Rồi tới chắt, chút, chít… đời đời tiếp nối theo và giữ nghề truyền thống.
Xưa, bánh chưng Thuỷ Đường nức tiếng gần xa. Nay, dù kinh tế khá giả, trong mâm
cơm ngày Tết ú hụ món ngon, thậm chí cả “sơn hào hải vị”, nhưng bánh chưng vẫn
là món không thể thiếu. Bánh chưng “made in Thuỷ Đường” thơm lừng, xanh mướt,
vuông vức là món quà quý của người dân Thuỷ Nguyên cũng như thành phố dành biếu,
tặng nhau mỗi dịp Tết đến, Xuân về.
Hiện
cả xã Thuỷ Đường có hàng trăm hộ làm nghề, trong đó hàng chục hộ sản xuất lớn
(tiêu thụ trên dưới 1 tạ gạo/ngày thường và 5-7 tạ/ngày/dịp cận Tết Nguyên
đán). Người làm nghề ở Thuỷ Đường sản xuất quanh năm. Ngày thường, ngoài bánh
chưng lớn, họ làm cả bánh chưng loại nhỏ (giá bán cho thương lái 5-10 nghìn đồng/chiếc),
bánh tày (nguyên liệu giống bánh chưng, có hình trụ, cỡ bằng cổ tay người lớn,
dài trên dưới 10 cm), bánh giò, bánh giậm… Bánh theo chân thương lái đi khắp
nơi, từ chợ quê đến chợ lớn trong nội thành, từ mẹt quà sáng của các mẹ, các cô
ở vùng nông thôn đến các nhà hàng sang trọng ở những con phố lớn. Từ cuối tháng
11 âm lịch trở đi, các hộ bắt tay vào sản xuất bánh chưng Tết theo đơn đặt hàng
của người quen, thương lái với giá 50-70 nghìn đồng/chiếc, tuỳ theo yêu cầu
bánh lớn, gạo, đỗ, thịt loại “thửa”.
Người
làm nghề ở Thuỷ Đường hầu hết “gói vo” (không dùng khuôn gỗ hoặc khuôn lá dừa),
nhưng bánh chưng cái nào cái nấy vuông vức, chặt tay. Để tạo độ rền cho bánh,
loại to luộc trên bếp than hoặc củi chừng 10-12 tiếng, còn loại nhỏ, cũng phải
trên dưới 5 tiếng. Do bánh chưng được luộc kỹ nên trong thời tiết lạnh đặc
trưng của Tết, không cần để trong tủ lạnh, có thể bảo quản trên dưới 10 ngày mà
không lo bị mốc hay thiu. Với bánh chưng Thuỷ Đường, chẳng bao giờ lo bị “lại gạo”.
Dù để cả tuần trong thời tiết lạnh đến mấy, miếng bánh chưng vẫn giữ được độ dẻo
và vị thơm ngon đặc trưng.
Trong
những ngày giáp Tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018, tìm về Thuỷ Đường, trong không
gian thơm nức của nồi bánh chưng, những người xa quê lại dậy lên nỗi nhớ nhà,
nhớ quê hương, nhớ mâm cơm gia đình quây quần, đầm ấm cùng nhau chờ đón thời khắc
giao thừa. Khi ấy, dù bận rộn hay kiếm được nhiều tiền đến mấy trong những ngày
Tết, cũng bỏ lại tất cả, đùm túm, sắp xếp hành lý để trở về với nơi chôn nhau,
cắt rốn…
(Nguồn:
Ngào ngạt hương vị bánh chưng Thuỷ Đường //Thái Phan
//http://www.baohaiphong.com.vn .- Ngày 27/2/2018)
4. Bác sĩ tận tâm với công tác y tế dự phòng
Gần
40 năm công tác, cống hiến cho ngành y, phó giáo sư-tiến sĩ, bác sĩ Đỗ Mạnh Cường,
Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng Hải Phòng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm,
nỗ lực làm việc, đóng góp nhiều công trình nghiên cứu khoa học, giúp làm tốt
công tác phòng, chống dịch bệnh trong thành phố.
Năm
1981, bác sĩ Đỗ Mạnh Cường bước vào công tác tại ngành y. Từ đó tới nay, với sự
nhiệt tâm với nghề, bác sĩ Cường không ngừng nỗ lực vừa học, vừa làm và nghiên
cứu thành công nhiều công trình khoa học về dịch tễ học, vắc-xin có tính ứng dụng
cao, góp phần tổ chức thực hiện tốt công tác phòng, chống các dịch bệnh nguy hiểm
như cúm A, tả, tay chân miệng, sởi…trong thành phố đạt hiệu quả cao. Điển hình
như công trình khoa học “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học các trường hợp mắc cúm
A/H1N1 tại Hải Phòng năm 2009-2010” thành công, từ đó bác sĩ Cường tiếp tục
tham gia nghiên cứu đề tài cấp Bộ do Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương triển khai
“Thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 mù kép, ngẫu nhiên, có đối chứng giả dược,
đánh giá tính an toàn và tính sinh miễn dịch của vắc-xin cúm A/H5N1 trên người
trưởng thành khỏe mạnh tại Việt Nam”. Những nghiên cứu của bác sĩ Cường góp phần
hạn chế số người nhiễm bệnh cúm A tại Hải Phòng. Ngoài ra, bác sĩ cũng chú trọng
phát triển, cải tiến kỹ thuật phun hóa chất phòng dịch; tổ chức tập huấn nghiệp
vụ cho đội ngũ bác sĩ, nhân viên trung tâm y tế dự phòng các quận, huyện. Vì vậy,
100% các dịch bệnh nhóm A (tả, cúm, SARS,...) trên địa bàn được phát hiện và xử
lý kịp thời.
Hiện
là phó giáo sư, tiến sĩ Y học, bác sĩ Đỗ Mạnh Cường vẫn tiếp tục biên soạn tài
liệu, tham gia đào tạo chuyên môn dịch tễ học đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên
làm công tác dự phòng trên địa bàn thành phố. Bác sĩ Cường cho rằng, để bảo đảm
làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác Y tế dự phòng là then chốt,
huy động cả cộng đồng tham gia. Vì vậy, bác sĩ luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm,
chủ động tổ chức chỉ đạo, xây dựng kế hoạch phòng, chống dịch bệnh. Điển hình
như công tác phòng, chống dịch sốt xuất huyết năm 2017. Ngay khi có thông tin
các tỉnh lân cận xuất hiện bệnh, bác sĩ Đỗ Mạnh Cường chỉ đạo đội ngũ bác sĩ,
nhân viên Trung tâm Y tế dự phòng triển khai kế hoạch, khẩn trương ngăn chặn,
khống chế dịch bệnh trên toàn thành phố; tổ chức thành lập đoàn kiểm tra công
tác phòng, chống dịch trên toàn thành phố, sẵn sàng hành động khi dịch bùng
phát. Bác sĩ Cường trực tiếp tới các địa phương có nguy cơ bùng phát dịch, khảo
sát và tổ chức phun hóa chất phòng dịch. Kết quả là dịch bệnh được dập tắt chỉ
trong 45 ngày.
Năm
2018, bác sĩ Đỗ Mạnh Cường tiếp tục chỉ đạo đội ngũ bác sĩ, nhân viên Trung tâm
Y tế dự phòng tổ chức triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh, nhất là các
chương trình tiêm chủng mở rộng, an toàn vệ sinh thực phẩm, chiến lược quốc gia
dinh dưỡng và hỗ trợ phát triển hệ thống y tế dự phòng trong và ngoài thành phố.
Với
hiệu quả công tác của mình, năm 2017, bác sĩ Đỗ Mạnh Cường được Thủ tướng Chính
phủ tặng bằng khen về thành tích xuất sắc trong triển khai, thực hiện phong
trào vệ sinh, nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2012-2017.
(Nguồn:
Bác sĩ tận tâm với công tác y tế dự phòng //Trịnh Trinh
//http://www.baohaiphong.com.vn .- Ngày 8/2/2018)
5. Hải Phòng - miền đất văn hóa đa sắc diện
Hải
Phòng - nơi hội tụ, bảo tồn, tái hiện và tôn vinh nhiều danh thắng, di tích lịch
sử của dân tộc. Hải Phòng đan xen những nét văn hóa đa sắc nhưng không trộn lẫn.
Chính sắc thái riêng biệt ấy đã lưu giữ, hình thành, ra đời những điểm đến độc
nhất chỉ có ở thành phố nơi cửa biển vào mỗi dịp Tết đến Xuân về.
Từ Tràng Kênh - Bạch Đằng, điểm đến ba
không :
Quần
thể di tích lịch sử văn hóa Tràng Kênh - Bạch Đằng nằm dưới chân núi Phượng
Hoàng (thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên), nhìn ra cửa sông Bạch Đằng lịch sử.
Khu di tích lưng tựa núi, chân đạp sông, mắt dõi biển Đông, thành điểm tựa tâm
linh cho cả một vùng Đông Bắc.
Tràng
Kênh - Bạch Đằng, một bảo tàng sống động về chiến công hiển hách của cha ông ta
chống giặc ngoại xâm và là nơi giáo dục trực quan về tinh thần yêu nước, lòng tự
tôn dân tộc của người dân đất Việt, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Nơi
đây, năm 938, Ngô Quyền đã đại thắng quân Nam Hán làm nên trận Bạch Đằng lần thứ
nhất, kết thúc trên 1.000 năm thống trị tàn ác của phong kiến phương Bắc, đưa
nước ta vào kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Năm 981, Lê Đại Hành Hoàng Đế đã tái tạo
trận Bạch Đằng lần thứ hai, chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất bảo vệ vững
chắc nền độc lập chủ quyền của dân tộc. Đến năm 1288, Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn với trận Bạch Đằng lần thứ ba - trận quyết chiến chiến lược đập tan
dã tâm xâm lược nước ta và mộng bá chủ thế giới của đế chế Nguyên Mông, giữ vững
độc lập, tự chủ và mở ra nền văn hóa Đông A rực rỡ.
Để
ghi nhớ công lao to lớn của các vị anh hùng và để bảo tồn truyền thống văn hóa
của dân tộc, khu di tích lịch văn hóa tâm linh Tràng Kênh được đầu tư, tu bổ lại
khang trang, uy nghi từ năm 2008, gồm: đền thờ Đức Vương Ngô Quyền, Linh từ
Tràng Kênh Vọng Đế thờ Đức Hoàng đế Lê Đại Hành, Đức Thánh Trần Hưng Đạo; trên
núi Phượng Hoàng là nơi thờ Đức Phật tổ Như Lai, Đạt Ma, Bồ Tát, Phật Hoàng Trần
Nhân Tông - người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ
ba cùng các môn đệ sáng lập phái Thiền Tông Trúc Lâm Yên Tử của Phật giáo Việt
Nam.
Quần thể này nằm trong khu di tích lịch sử,
danh thắng Yên Tử - Tràng Kênh - Bạch Đằng đã được Nhà nước xếp hạng cấp quốc
gia vào năm 1962 và là một trong những di tích, cụm di tích được xếp hạng sớm
nhất của Hải Phòng. Khu di tích Tràng Kênh - Bạch Đằng xưa và nay, điểm sáng hội
tụ nhiều tinh hoa của dân tộc. Trong tâm thức hằng nghìn năm của người Việt, Bạch
Đằng đã trở thành mảnh đất thiêng đúng như lời ngợi ca của Phạm Sư Mạnh
"Giang san vượng khí Bạch Đằng thâu", nghĩa là hồn thiêng sông núi hội tụ nơi Bạch Đằng.
Hằng
năm, khu di tích Tràng Kênh mở các lễ hội lớn như: ngày 14, 15 tháng Giêng (lễ
khai ấn Đức Thánh Trần); ngày 20 tháng Tám âm lịch là ngày giỗ của Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn; ngày 14 tháng Chạp là ngày khánh tân ngôi đền thờ Hưng Đạo
Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Ông
Nguyễn Mạnh Hà, Ban Quản lý khu di tích Tràng Kênh - Bạch Đằng cho hay: Từ khi
được đầu tư, tu bổ lại khang trang, khu di tích này đã đón hàng triệu lượt du
khách thập phương. Những ngày đầu xuân mới Mậu Tuất 2018, đã có hàng vạn lượt
du khách tới vãn cảnh, dâng hương tại khu di tích mỗi ngày. Điều khác biệt ở khu
di tích Tràng Kênh - Bạch Đằng là du khách không phải mất bất cứ một khoản phí
dịch vụ nào. Khu di tích 3 không - không thu phí, không hàng quán và không rác
thải.
Đến Núi Voi - một thành lũy bảo vệ thành
phố Cảng trong suốt chiều dài lịch sử :
Lễ
hội truyền thống Núi Voi diễn ra vào ngày 13 tháng Giêng hằng năm, tại xã An Tiến
và Trường Thành, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Khu di tích lịch sử danh thắng
Núi Voi là một vùng non nước sơn thuỷ hữu tình, điểm đến của du khách trong và
ngoài thành phố.
Nhiều
hiện vật tìm được ở Núi Voi chứng minh người cổ ở đây xuất hiện rất sớm cuối thời
đại đồ đồng, đầu thời đại đồ sắt cách đây khoảng 2500 năm... Là một trong những
địa điểm khảo cổ học lớn ở miền ven biển Đông Bắc nằm giữa hành lang Đông Tây, giữa
nền văn hoá Đông Sơn và văn hoá Hạ Long. Núi Voi là vùng đất cổ kính chứa đựng
một kho tàng văn hoá phong phú, quê hương của nhiều danh tài, mặc sĩ.
Nhiều công trình kiến trúc cổ (đình, chùa, đền,
miếu) được xây lại, từ thế kỷ 11-12 được sử sách ghi lại cùng với tháp Tường
Long (Đồ Sơn) hình thành nên như một trong những trung tâm phật giáo đô hội sầm
uất của quốc gia Đại Việt thời bấy giờ, có danh nhân Bùi Mộng Hoa mở trường dạy
học từ thế kỷ XI, cùng thời với Văn Miếu Quốc
Tử Giám Hà Nội.
Theo
Bí thư Huyện ủy An Lão Nguyễn Đức Thọ: Núi Voi còn như một thành lũy bảo vệ
thành phố Cảng trong suốt chiều dài lịch sử kháng chiến của ông cha. Các di
tích, hang động khu quần thể Núi Voi đều gắn với các sự kiện lịch sử trọng đại
của thành phố Hải Phòng trong quá trình đấu tranh, bảo vệ nền độc lập tự do của
Tổ quốc. Cảnh quan du lịch Núi Voi với thế mạnh về nghỉ dưỡng, du lịch sinh
thái, văn hoá, đủ khả năng đáp ứng du khách suốt cả bốn mùa, góp phần làm đa dạng
hoá thị trường, sản phẩm du lịch Hải Phòng.
Nữ tướng Lê Chân - người có công khai
hoang, lập ấp :
Hải
Phòng tự hào là thành phố cửa biển vùng Đông Bắc của Tổ quốc - nơi Nữ tướng Lê
Chân sáng lập. Tương truyền, Nữ tướng Lê Chân quê ở làng An Biên, huyện Đông
Triều, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay thuộc thôn An Biên, xã Thủy An, huyện
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Bà là người có nhan sắc, giỏi võ nghệ lại có tài
thơ phú nên tiếng đồn đến tai Thái thú nhà Hán là Tô Định.
Tô
Định toan lấy bà làm thiếp nhưng bị cha mẹ bà cự tuyệt, chính vì thế họ đã bị sát
hại. Bà Lê Chân phải bỏ quê đến vùng An Dương, cửa sông Cấm lập trại khai phá.
Cùng với phát triển sản xuất, bà chiêu mộ trai tráng để luyện binh và được sự ủng
hộ của nhân dân quanh vùng. Năm 40, khi Hai Bà Trưng dấy binh, bà Lê Chân đem
theo binh lính gia nhập quân khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Trong các trận đánh,
bà thường được cử làm Nữ tướng quân tiên phong, lập nhiều chiến công.
Bà
Đỗ Thanh Lê, Bí thư Quận ủy Lê Chân chia sẻ: Thời gian qua, quận Lê Chân tập
trung xây dựng, bảo tồn di sản văn hóa; đồng thời phối hợp với các ngành liên
quan tăng cường quảng bá, hình thành và kết nối các điểm du lịch tâm linh giữa
thành phố Hải Phòng và các tỉnh, thành phố trong cả nước. Quần thể Nữ tướng Lê
Chân đã trở thành điểm đến tâm linh, cầu sức khỏe, sung túc và bình an của nhân
dân thành phố và khách thập phương.
Vào
ngày 8 tháng Hai âm lịch hằng năm, sẽ diễn ra Lễ hội chính truyền thống Nữ tướng
Lê Chân, được tổ chức tại quần thể khu di tích Nữ tướng Lê Chân, quận Lê Chân,
gồm: Tượng đài Nữ tướng Lê Chân, đền Nghè và đình An Biên. Lễ hội truyền thống
Nữ tướng Lê Chân được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia vào
tháng 3/2016.
Lễ
hội nhằm khơi dậy niềm tự hào dân tộc, niềm tự hào của người dân Hải Phòng và
phát huy các nét đẹp văn hóa, nghi lễ truyền thống; đồng thời tôn vinh thân thế,
sự nghiệp, tri ân công đức to lớn của Nữ tướng Lê Chân - người có công khai
hoang, lập ấp dựng lên trang An Biên xưa - thành phố Hải Phòng văn minh, hiện đại
ngày nay.
(Nguồn:
Hải Phòng - miền đất văn hóa đa sắc diện //Đoàn Minh Huệ //https://baotintuc.vn
.- Ngày 23/2/2018)
6. Ông giáo của trẻ thiệt thòi giữa lòng phố cảng
(GDVN)
- Suốt gần 25 năm qua, ông giáo già Hoàng Ánh Hưng ở Hải Phòng đã miệt mài gieo
chữ, giúp cho những trẻ em thiệt thòi thoát khỏi tình trạng mù chữ.
Trường
tiểu học Dư Hàng (phường Dư Hàng, quận Lê Chân, Hải Phòng) sáng thứ bảy, chiếc
xe máy dừng lại trước cổng, một ông già từ sau xe bước xuống, chậm chậm bước
vào trường.
Lớp học chỉ có bốn trò:
Ông
lão 73 tuổi bước từng bước chậm, căn bệnh parkinson khiến cho hai cánh tay run
rẩy theo từng nhịp chân. Ông là ông giáo Hoàng Ánh Hưng, người thầy quen thuộc
của lớp học tình thương ở Trường Dư Hàng vào mỗi sáng thứ bảy.
Lớp
học tình thương chỉ có bốn học trò được trường tổ chức thành lớp ghép, học sinh
chỉ học hai môn toán và tiếng Việt. Cậu bé Nguyên và cô bé Thanh cỡ độ 12 tuổi
đang học chương trình lớp 1. Hai cô gái Hà và Nhi đã bước vào tuổi 18 đang học
chương trình lớp 3.
Bốn
học sinh đã chờ sẵn trong lớp, ríu rít chào thầy rồi lục tục mở sách vở chuẩn bị
học môn toán.
Ông
giáo gật đầu chào đám học trò, đặt chiếc cặp lên bàn, mở sách, ghi lên bảng bài
học mới của môn toán.
Trước
khi vào bài, ông bước xuống dưới, đảo qua đám học trò kiểm tra bài cũ.
Ngó
vào cuốn bài tập toán của Nguyên, ông giáo gật đầu, tỏ ý hài lòng.
Nguyên
vốn là cháu bé bị tự kỷ, theo học lớp 1 tiểu học không được nên được chuyển qua
lớp học tình thương này. Cháu học toán được nhưng tiếng Việt thì tiếp thu khá
chậm.
Cô
bé Thanh bị thiểu năng, từ khi đến lớp học, cháu bé đã có thể đọc được chữ
nhưng viết và làm toán thì gần như không tiến triển mấy.
Hai
cô gái lớp 3 là Hà và Nhi đều có hoàn cảnh mồ côi, gia đình khó khăn nên không
được tới trường.
Các
em đã được người thân đưa tới xin vào lớp học tình thương của ông giáo Hưng được
3 năm nay.
Cả
hai em được thầy đánh giá tiếp thu bài vở khá tốt.
“Tôi
vẫn động viên các cháu, các cháu thiệt thòi không được đi học là do hoàn cảnh
chứ không phải bản thân các cháu.
Hà
và Nhi đều học được, tôi định nếu hết tiểu học mà các cháu muốn học tiếp thì gửi
các cháu vào trung tâm giáo dục thường xuyên” – ông giáo chia sẻ.
Lớp
học tình thương của Trường tiểu học Dư Hàng do thầy Hưng đảm nhận là nơi dạy
cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn hoặc tật nguyền.
Lớp
học được tổ chức vào ngày thứ 7, sáng học toán, chiều học tiếng Việt.
Do
ông giáo đã ngoài 70 lại bị căn bệnh parkinson nên năm nay có thêm một cô giáo ở
trường Dư Hàng tình nguyện dạy môn tiếng Việt cho các em, còn thầy Hưng đảm nhiệm
môn toán.
Người thầy của trẻ thiệt thòi:
Ông
giáo Hưng là người đã gây dựng và gắn bó với nhiều thế hệ học sinh của lớp học
tình thương này suốt gần 25 năm qua. Ông vốn là thầy giáo tiểu học, năm 1993 do
sức khoẻ yếu, gia đình khó khăn, ông đã xin nghỉ hưu sớm.
Cũng
trong năm 1993, một người bạn là Việt kiều Mỹ gặp ông ngỏ ý muốn giúp một số tiền
nho nhỏ để ông mở lớp dạy phổ cập tiểu học, xoá mù chữ cho những trẻ em thiệt
thòi, không được đi học.
Thời
điểm ấy ở khu vực phường Dư Hàng vốn là một điểm nóng về tệ nạn ma tuý, có nhiều
cháu nhỏ hoàn cảnh gia đình khó khăn không được đến trường.
Thầy
Hưng đã chạy đôn đáo xin thủ tục mở lớp học tình thương này. Thầy Hiệu trưởng
Trường tiểu học Dư Hàng nghe đồng nghiệp đặt vấn đề đã ủng hộ nhiệt tình.
Hơn
30 học sinh là những trẻ em bỏ học, trẻ quá tuổi ở khu vực phường Dư Hàng và
vùng lân cận, hầu hết đều có hoàn cảnh khó khăn, nhiều em có bố mẹ ngập sâu
trong tệ nạn xã hội đã được thầy Hưng vận động tham gia lớp học. Tháng 12/1993,
hai lớp học tình thương thuộc sự quản lý của Trường tiểu học Dư Hàng ra đời.
Trường
tổ chức thành hai lớp ghép học hai môn toán và tiếng Việt, một lớp hơn chục em
học chương trình lớp 1-2-3, một lớp hơn chục em học chương trình lớp 4-5.
Một
người bạn của thầy Hưng dù không phải là giáo viên nhưng cũng tình nguyện đảm
nhiệm dạy cho lớp ghép 1-2-3, thầy Hưng phụ trách lớp 4-5. Tuần bốn buổi, hai
ông giáo tới lớp dạy cho đám trẻ.
Thầy
Hưng cho biết lớp học trong những năm đầu thường xuyên duy trì sĩ số khoảng
20-30 học sinh, sau đó giảm dần, từ năm 2000 trở đi lớp còn khoảng chục cháu
theo học. Từ năm ngoái thì lớp học tình thương còn lại bốn học sinh.
Suốt
gần 25 năm qua, có cả trăm học sinh hoàn cảnh khó khăn đã qua lớp học tình
thương này, trong số đó, có chừng hơn 50 em đã học đến hết cấp trung học cơ sở.
Một số em học lên trung học, có em học xong trung cấp nghề.
Đau đáu với lớp tình thương:
Thầy
Hưng cho hay lớp học tình thương duy trì được gần 25 năm nay là nhờ sự giúp đỡ
nhiệt tình của các thầy cô lãnh đạo Trường tiểu học Dư Hàng và những nhà hảo tâm giúp đỡ.
Lớp
học đã hình thành từ gợi ý giúp đỡ của một Việt kiều Mỹ, bạn của thầy Hưng. Mỗi
tháng, người bạn này hỗ trợ khoản tiền 1 triệu đồng để thầy duy trì lớp học
tình thương cho những trẻ em thiệt thòi.
Tuy
nhiên, lớp học tình thương hoạt động được 3 năm thì người bạn Việt kiều cắt khoản
kinh phí hỗ trợ này.
Không
đành lòng để lớp học vừa mới hình thành đã tan rã, những đứa trẻ thiệt thòi tái
mù chữ, thầy Hưng cố gắng chèo chống duy trì lớp.
Hơn
một năm sau, biết về lớp học tình thương cho trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, nhà sư
Thích Quảng Tùng, trụ trì chùa Hàng, đã hỗ trợ cho lớp một khoản kinh phí nho
nhỏ, tháng một triệu, tháng vài trăm nghìn đồng.
Tới
năm 2016 nhà chùa thôi tài trợ khoản kinh phí này cho lớp học tình thương, mọi
sự hỗ trợ giúp đỡ lớp học đều phải trông chờ vào nhà trường.
Thầy
Hưng cho biết suốt 25 năm qua mình luôn trăn trở duy trì lớp học tình thương bởi
ông không cam tâm thấy cảnh giữa lòng thành phố cảng lại có những trẻ em mù chữ.
Dù
nay sức khoẻ đã suy giảm, lại mắc căn bệnh parkinson khiến chân tay run rẩy
nhưng hầu như không có buổi học nào vắng mặt thầy. Năm 2006, thầy được Uỷ ban
dân số gia đình và trẻ em vinh danh Những tấm lòng yêu trẻ.
“Các
con vì hoàn cảnh mà thua chúng bạn nên tôi luôn nhắc mình phải cố gắng hơn nữa
để các con không phải bỏ học.
Nhưng
nay tuổi đã cao chỉ mong sao tiếp tục có những tấm lòng hảo tâm giúp đỡ, có những
thầy cô chung tay với mình để duy trì lớp học để bù đắp phần nào cho những đứa
trẻ thiệt thòi” – thầy Hưng nói.
(Nguồn:
Ông giáo của trẻ thiệt thòi giữa lòng phố cảng //Đỗ Hoàng //http://giaoduc.net.vn
.- Ngày 22/2/2018)

