Cuộc đấu tranh 300 ngày chuẩn bị tiếp quản thành phố: Thắng lợi của lòng khao khát hòa bình


Cuộc đấu tranh 300 ngày chuẩn bị tiếp quản thành phố: Thắng lợi của lòng khao khát hòa bình

Trước giờ phút các cánh quân vượt qua các cửa ô, tiến về giải phóng
Hải Phòng vào ngày 13-5-1955, Đảng bộ quân và dân thành phố trải qua
cuộc đấu tranh 300 ngày với thực dân Pháp khi chúng tập kết tại Hải
Phòng để rút khỏi miền Bắc. Cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng căng thẳng,
quyết liệt, chống lại âm mưu phá hoại của thực dân Pháp biến Hải Phòng
thành “thành phố chết” trước khi rút đi.

Phá vỡ âm mưu thâm độc:

Theo Hải Phòng lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mặc
dù đã ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ nhưng thực dân Pháp câu kết với can
thiệp Mỹ tìm mọi cách phá hoại Hiệp định, hạn chế thắng lợi của ta. Tại
Hải Phòng, chỉ trong 4 tháng sau khi ký kết Hiệp định, thực dân Pháp
liên tiếp vi phạm, tiến hành 133 cuộc vây ráp, hơn 200 lần nổ súng vào
các khu dân cư, bắt 852 thanh niên vào lính ngụy, giam giữ 517 người
dân, bắn chết 9 người và đánh bị thương 167 người khác. Địch còn dùng
mọi thủ đoạn tuyên truyền, lừa bịp đi đôi với cưỡng bức, đe dọa, đưa
nhiều binh lính, tay sai phản động và ép buộc đồng bào công giáo di cư
vào Nam. Bọn tay sai được lệnh tìm mọi cách cướp đi hoặc phá hoại tài
sản, máy  móc, hồ sơ, tài liệu của thành phố.

Từng là cán bộ mật giao đội biệt động thị xã Kiến An, bà Nguyễn Thị
Quyên, Phó trưởng ban Thường trực Ban Liên lạc cán bộ kháng chiến Hải
Phòng cho biết: cuối năm 1954, đầu năm 1955, các cơ quan quân sự, dân
sự, binh lính địch cùng hàng vạn giáo dân các tỉnh Nam Định, Thái Bình,
Ninh Bình… dồn về Kiến An. Thực dân Pháp hung hăng bạo ngược, cướp bóc,
càn quét, phá hoại tài sản công cộng và vây ráp bắt lính. Ngụy quyền bắt
các gia đình treo cờ 5 sọc. Địch còn ép công nhân tháo dỡ máy móc của
nhà máy, cơ sở sản xuất, bệnh viện, phá hủy cầu, đường…

Theo đại tá Hoàng Xuân Lâm, nguyên Trưởng đoàn hành chính vào tiếp
quản thị xã Kiến An, để thực hiện âm mưu phá hoại, trùm tình báo Mỹ tại
Đông Dương Lên-xđên, tướng Mỹ Cô-lin, Giáo chủ Spen-man, Ngô Đình
Diệm...thay nhau ra Hải Phòng, đốc thúc việc cưỡng ép người dân di cư
vào Nam, di chuyển và phá hoại máy móc, chôn giấu vũ khí, cài cắm gián
điệp nhằm thực hiện âm mưu trở lại miền Bắc. Thực dân Pháp cố tình vi
phạm hiệp định, đốt hết sổ sách, thiết bị thông tin của các cơ quan, xí
nghiệp, nhà máy, chỉ còn để trơ lại một số bàn ghế, tủ trống. Mỹ gây sức
ép buộc một số công ty của người Pháp đang còn hy vọng ở lại làm ăn với
ta phải thu dọn công việc, giãn thợ và nhân viên, tháo dỡ máy móc mang
đi. Mưu đồ nham hiểm của chúng là để khi Việt Minh vào tiếp quản, thành
phố chỉ còn các xí nghiệp rỗng, các công sở, bệnh viện không còn phương
tiện làm việc, một thành phố không điện, không nước, một hải cảng không
đủ điều kiện cho tàu bè ra vào và một sân bay không hoạt động được…

Đấu tranh toàn diện trên các mặt trận:

Đại tá Hoàng Xuân Lâm cho biết: Nhận rõ tính chất quyết liệt trong
khu vực địch tập kết, Trung ương  quyết định thành lập Ban chỉ đạo khu
300 ngày và phân công đồng chí Đỗ Mười, Ủy viên Trung ương Đảng trực
tiếp làm Trưởng ban. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Khu ủy Tả
ngạn và Ban chỉ đạo khu 300 ngày, Thành ủy Hải Phòng và Tỉnh ủy Kiến An
giáo dục cán bộ, đảng viên, quần chúng nhận rõ bản chất, âm mưu của
địch; quán triệt tình hình, nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ mới;
xác định phương châm, phương pháp đấu tranh chống địch trên tất cả  mặt
trận: kinh tế, chính trị, xã hội...

Về mặt chính trị, ta đẩy mạnh tuyên truyền đường lối, chính sách
khoan hồng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ta, đồng thời phát động
phong trào địch vận, chống âm mưu di cư, cưỡng bức giáo dân vào Nam.
Trong ký ức của bà Nguyễn Thị Quyên, những ngày cuối năm 1954, đầu năm
1955, ở Kiến An, thực dân Pháp xây dựng 2 trại dành cho vợ lính, một ở
khu vực nhà thờ Tin lành và một ở ngã 5 gần sân bay Kiến An. Tổ cán bộ
mật giao của ta ở Kiến An lúc bấy giờ gồm 4 thành viên trong đó có bà
được giao nhiệm vụ nắm tình hình binh lính địch, làm công tác địch vận.
Trong vai người phụ nữ trẻ có chồng đi lính cho Pháp chết trận, bà Quyên
lân la gần khu trại vợ lính, bắt quen với các bà vợ, tuyên truyền, vận
động, lôi kéo những người đi lính cho Pháp bỏ trại, trở về với gia đình,
quê hương. “Tôi còn nhớ như in trường hợp vận động Trưởng bốt Bảo Chính
Đoàn, là anh Quy, người cùng làng với tôi. Sau khi tiếp cận và thuyết
phục được vợ anh, tôi được bố trí gặp trực tiếp anh Quy để khuyên nhủ,
thuyết phục và được anh đồng ý, tạo điều kiện cho vào bốt để vận động
binh lính ngụy không di cư vào Nam. Kết quả, bốt có gần 200 người được
giải tán, binh lính trở về với gia đình, không đi theo địch vào Nam. Tôi
còn tham gia vận động anh Tình, anh Trấn là trưởng và phó xưởng công
binh chuyên sản xuất vũ khí giải tán xưởng, đưa 90 người ra vùng giải
phóng”.

Với sự tham gia nhiệt tình, hăng hái của nhân dân, trong thời gian
300 ngày, công tác địch vận đã làm tan rã hầu hết khối quân ngụy tập kết
ở Hải Phòng – Kiến An, lôi kéo được một lực lượng lớn binh lính địch về
với nhân dân.

Về mặt kinh tế, công nhân ở các nhà máy, xí nghiệp và nhân dân tích
cực đấu tranh chống địch cướp phá tài sản, máy móc. Ở Nhà máy Xi-măng
Hải Phòng, trước khi rút đi, bọn thực dân và chủ Pháp âm mưu tháo gỡ, di
chuyển máy móc, thiết bị nhà máy vào Nam. Ông Lê Văn Sử, thôn Phạm
Dùng, xã An Hồng, huyện An Dương, nguyên quản đốc phân xưởng Lò nung của
Nhà máy Xi-măng trong những năm tháng lịch sử ấy nhớ lại: ở phân xưởng
Lò nung lúc đó có 5 lò gang và 7 lò nung, cùng nhiều máy tiện, máy bào,
máy xay. Phân xưởng có 480 công nhân, trong đó có đội tự vệ gồm 10 đồng
chí do đồng chí Kháng chỉ huy. Đấu tranh với âm mưu của Pháp, công nhân
trong phân xưởng nói riêng, nhà máy nói chung cất giấu hết các máy móc
quý, giành giật suốt hơn 300 ngày đêm để giữ lại tài sản, máy móc, bảo
đảm cho nhà máy có thể hoạt động, đồng thời phá hỏng cần cẩu vòng để
địch không có phương tiện chuyển hàng đi Nam. Ở các nhà thương vườn hoa
Quả bóng, nhà thương chính, nhà máy đá Tràng Kênh, Cảng Hải Phòng, xí
nghiệp Hỏa xa, nhà máy điện Cửa Cấm… cũng diễn ra nhiều cuộc đấu tranh
ác liệt giữa ta và địch.

Dã man và thâm độc hơn, địch còn âm mưu đưa 300 tù nhân ở Căng Máy
Chai ra biển thủ tiêu. Ta huy động 3 vạn nhân dân nội, ngoại thành tham
gia đấu tranh suốt 3 ngày đêm. Cuối cùng, địch phải thả hết số anh em bị
giam cầm trong trại. Những ngày đầu năm 1955, ở Hải Phòng còn nổ ra
cuộc đấu tranh bảo vệ 26 chiến sĩ hòa bình Sài Gòn – Chợ Lớn bị địch
giam lỏng ở đây. Quân và dân thành phố cũng đấu tranh đưa được giáo sư
Phạm Huy Thông cùng vợ ra ngoài khu tự do.

300 ngày đêm với hơn 200 cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng căng thẳng và
quyết liệt, vừa dựa vào tính pháp lý của hiệp định, vừa biểu dương sức
mạnh của quần chúng, kết hợp vận động làm tan rã và phân hóa hàng ngũ
địch, đem lại thắng lợi to lớn. Âm mưu của địch cướp người, cướp của,
phá hoại khu tập kết không thực hiện được. Thành công của cuộc đấu tranh
300 ngày tạo tiền đề thuận lợi làm nên thắng lợi của quá trình tiếp
quản và giải phóng thành phố. Theo đại tá Hoàng Xuân Lâm, càng gần tới
ngày quân ta tiếp quản, không khí thành phố càng khẩn trương, sôi sục.
Công đoàn thành phố dùng chùa Phổ Chiếu làm địa điểm tập trung để may
cờ, thợ may làm việc suốt ngày đêm. Người dân cũng tự may cờ ở nhà. Tất
cả sẵn sàng cho ngày Hải Phòng hoàn toàn giải phóng với tràn ngập cờ,
hoa, đón mừng cuộc đời mới đang đến với nhân dân thành phố Cảng !

(Nguồn: Cuộc đấu tranh 300 ngày chuẩn bị tiếp quản thành phố…/Thành Lê, Mai Dung//Báo Hải Phòng. - ngày 14/05)





Facebook zalo

Các tin đã đưa