Về đền Mõ xem rước thánh ra "phơi"

Về đền Mõ xem rước thánh ra "phơi"


Không gian lễ hội ở đền Mõ (Ngũ Phúc - Kiến Thụy)



    Về Kiến Thụy những ngày đầu xuân, đứng trên núi Đối, hướng tầm mắt hưởng thụ không gian khoáng đạt đến mênh mông của sông Đa, khoan thai giữa non nước thanh bình mà thấy lòng rạo rực muốn tưng tưng nhảy lên theo nhịp trống hội.
Miền đất có nhiều phong tục cổ:
    Cách trung tâm thành phố chừng 15km về phía Đông Nam, huyện Kiến Thụy có tư thế của một chàng trai miền cửa biển, mộc mạc mà phóng khoáng. Mô tả về con người vùng đất thuần nông này, anh bạn tôi ở Phòng văn hóa huyện đọc câu vè: “Trai tài đánh cạm đùi đen kít - Gái đảm việc nhà rốn mọc rêu”. Hỏi ra anh giải nghĩa: “Kiến Thụy là vùng đất cửa biển sâu trũng, trai gái lúc nào cũng làm việc nước (nghĩa đen) lam lũ nên đùi, rốn bám rêu bám cáu…”.
    Có lẽ chính vì nét giản dị ấy mà người Kiến Thụy mới gìn giữ được cho mình những phong tục truyền thống độc đáo ít nơi nào sánh được. Anh bạn tôi điểm qua: “Chỉ riêng xã Tân Trào có 4 làng thì từng ấy làng có hội, vật cầu củ chuối ở Kim Sơn, chạy đá, rước lợn ông bồ ở Kỳ Sơn, rước cá sủ ở Ngọc Tỉnh, rước cá mối ở Đa Ngư. Rồi xã Đại Hợp có đua thuyền - đi kheo, Thuận Thiên có hội minh thề, Thụy Hương có hội chùa Trà Phương, Đông Phương có hội thả diều…     Chưa kể những hội lớn như chọi trâu, đua thuyền rồng của Đồ Sơn vốn cũng thuộc Kiến Thụy xưa”. Kể đến đây, anh hào hứng: “Dịp này có hội đền Mõ, nhà báo về nhé!”.
    Nói về hội đền Mõ ở xã Ngũ Phúc, không riêng người Kiến Thụy mà nhiều người ở địa phương khác đều biết, bởi đây là một trong những lễ hội truyền thống nổi bật nhất của Kiến Thụy. Ngũ Phúc nằm ở phía Tây Nam, cách thị trấn Núi Đối 7km, giáp với các xã An Thái và An Thọ của huyện An Lão, cách huyện Tiên Lãng một chuyến đò qua sông Văn Úc. Trước năm 1945, Ngũ Phúc là trung tâm của tổng Nghi Dương (trùng với tên huyện cũ) gồm cả các xã Kiến Quốc và Du Lễ ngày nay. Theo ông Nguyễn Đức Toàn - Chủ tịch UBND xã, hiện tại Ngũ Phúc có khoảng 6.500 nhân khẩu, quây quần đầm ấm trong 5 thôn: Nghi Dương, Mai Dương, Xuân Chiếng, Xuân Đông và Xuân Đoài. Là xã cổ, có hàng trăm dòng họ với những nét văn hóa đặc sắc được bền bỉ giữ gìn, hệ thống đình, đền, chùa còn đến ngày nay đều xuất nguồn từ thời Lý - Trần mà đền Mõ xứng đáng là biểu tượng.
    Đền Mõ thờ công chúa Thiên Thụy Trần Quỳnh Trân của nhà Trần, được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia từ năm 1991. Truyền rằng, năm Quý Mùi (1283), công chúa xin xuất gia tu hành, được vua cha Trần Thánh Tông cho phép, bà đến vùng Nghi Dương thấy thế đất bồi ven sông nổi lên trù phú, bèn chiêu mộ dân đến khai hoang lập ấp, dựng ở đây một ngôi chùa làm nơi nương nhờ của Phật. Đền hiện vẫn giữ 11 bản sắc phong qua các triều đại phong kiến, nhưng dấu tích cổ nhất có lẽ chính là cây gạo được truyền tụng trồng cách đây hơn 700 năm, cứ độ tháng Ba về lại bừng bừng sắc đỏ.
Khát nước, rước thánh ra “phơi”:
    Truyền rằng, Quỳnh Trân công chúa là người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, dạy cho dân điều hay lẽ phải, khi có việc gì thường lấy mõ báo hiệu để tụ tập nên dân làng tôn xưng là “Bà Chúa Mõ”. Cũng theo truyền thuyết, một dịp trời hạn hán, có bọn mục đồng vào chùa xin nước, bà nói: “Các cháu thử cùng nhau thi vật xem được thua thế nào, ta sẽ cho nước uống…”. Bọn trẻ vâng lời, vờn tay đấu vật, bà cả mừng ban phép, nghiệm thay trời đô mưa mát mẻ chan hoà khắp vùng, nhân đó đổi tên chùa là Đồng Mục. Ngày mồng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), công chúa tịch tại chùa, được đưa về kinh sư lập tháp an táng, vua Trần Anh Tông sắc phong là Trần Triều Ả Nương Thiên Thụy Quỳnh Trân công chúa, ban cấp 300 quan tiền cho các xã quanh vùng rước sắc về Nghi Dương lập đền thờ.
    Còn dân làng Nghi Dương xưng tụng bà là Thiên thánh, danh tôn đền thờ “Bà Chúa Mõ” thường được gọi tắt là đền Mõ. Trải qua các triều đại, vua chúa đều có sắc phong cho bà, mỗi mùa xuân về vào dịp khánh hạ, quan dân trong vùng đều vâng sắc chỉ, đến đây tế lễ, lập đàn cầu đảo. Cũng là tín tâm cầu xin mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, một lệ tục của văn hóa lúa nước, nhưng lễ cầu đảo gắn với tích bà chúa Mõ lại mang màu sắc độc đáo đến lạ lùng. Rằng cứ khi trời hạn hán, dân chúng lại khiêng long đình bát biểu và bài vị của thần thánh từ trong đền ra phơi giữa thanh thiên bạch nhật. Có người cho rằng, đây cũng chính là tâm nguyện của Quỳnh Trân công chúa trước khi về cõi Phật, để thần thánh thấu hiểu được nỗi khổ ải của dân chúng mà xót lòng đoái thương chăng?
    Lệ tục cầu đảo năm nào cũng bắt đầu vào ngày đầu tiên của lễ hội đền Mõ, tức ngày khánh hạ 12-2 âm lịch, sau khi rước bài vị “thánh bà” ra, các cháu trai “đồng tử” tuổi không quá 14, đóng khố để trần, diễn lại tích “mục đồng xin nước” ngày xưa. Là người nhiều lần chứng kiến lễ này, tôi nghe những người dân ở đây quả quyết rằng: Chẳng biết ngẫu nhiên hay bởi “thánh thiêng”? Nhưng năm nào cũng vậy, cứ vật cầu đảo xong có thể ngay trong ngày, hoặc muộn là ngày một ngày hai, y như rằng trời đổ mưa xuống, dù trước đó không hề có điềm báo nào?
    Được biết lễ hội năm nay vẫn theo lịch cũ, mở đúng ngày 12-2 Bính Thân, tức ngày 20-3-2016. Nhận lời mời, tôi định bụng nhất định dịp này sẽ về Kiến Thụy, để thêm một lần được xem người Ngũ Phúc rước thánh ra “phơi”, diễn lại tích cổ vật đảo cầu mưa.
(Nguồn: Về đền Mõ xem rước thánh ra "phơi"/Gia Lê//Báo An ninh Hải Phòng. - ngày 17/03/2016)
Facebook zalo

Các tin đã đưa