
Hiện nay mộ tổ TS Phan Trứ ở thôn Quán Trang xã Bát Trang, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng trong cuốn “Đoàn Phan quế phả”, Phan Trứ đã viết “Họ Phan ta, nguyên trước là họ Đoàn, người xã Quán Trang, huyện Kim Thành, mới bốc cư ra ở làng đây (tức là làng Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên).
Đầu năm 2015 các cụ họ Đoàn vừa khánh thành nhà từ đường mới tu bổ lại, có cả con cháu họ Phan về dự. Trước ngày Hải Phòng giải phóng (13/05/1955) ông Phan Quế cháu gọi cử nhân Phan Khắc Nhân – em ruột TS Phan Trứ bằng cụ nội còn có hơn 50 mẫu ruộng cho nông dân Quán Trang cày cấy thuê. Mộ tổ Phan Trứ là một di tích lịch sử hiếm hoi hơn 400 năm mà vẫn được con cháu giữ gìn, thờ phụng, trước cổng còn khắc đôi câu đối của chính Phan Trứ phụng đề năm 1848:
Nhất phẩm cốt trầm lưu hổ hiệp
Thất lưu tiên huyết liệt tượng đầu
(Một nắm xương khô còn nơi huyệt hổ
Bảy dòng máu người xưa vẫn chảy chốn đầu voi)
“Đầu voi” tức là núi Voi (An Lão). “Nắm xương khô” là xương cốt của cụ tổ của dòng họ Đoàn – Phan. “Bảy dòng máu” là bảy chi họ.
Từ năm 1075 đời vua Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên và trao bằng Tiến sĩ cho những người ưu tú nhất. Thực tế lịch sử đã công nhận các vị đỗ đạt trong các kỳ thi phần lớn đều là những trụ cột của quốc gia TS mở đầu Lê Văn Thịnh giữ chức Thái sư đầu triều Lý, khi đi ra nước ngoài họ đều làm vẻ vang cho tổ quốc như Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi đời Trần. Vì vậy, hơn 400 năm sau trong một tấm bia ghi danh Tiến sĩ đời Lê đã khẳng định : “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” và các vị đỗ Tiến sĩ được mặc nhiên hiểu là hiền tài và nguyên khí.
Đối với Triều Nguyễn sau khi làm chủ nước nhà 20 năm, khi các công thần đi theo Gia Long từ thưở lưu lạc ở Băng Cốc một phần già chết, một phần do tuổi tác phải nghỉ hưu, Minh Mệnh đã cho mở khoa thi đình để lấy học vị tiến sỹ, mặc dầu trước đó 15 năm Gia Long đã mở các kỳ thi hương để lấy cử nhân.
Triều Nguyễn cũng phải theo thông lệ của Trung Hoa, của các đời Lý, Trần, Lê, Mạc hàng nghìn năm của Việt Nam .... chỉ có tuyển dụng thông qua các kỳ thi với các thể lệ đặc biệt nghiêm túc, mới có thể tìm ra nhân tài một cách khách quan và dân chủ nhất.
Triều Nguyễn suốt từ 1807 đến 1919, qua hơn 100 năm lấy 5232 cử nhân, 556 Tiến sĩ + Phó bảng, trong đó khoảng hơn 200 vị là Tiến sĩ trong đó 39 vị là đình nguyên TS Phan Trứ là 1 trong 39 đình nguyên ấy.
Suốt nghìn năm lịch sử, Việt Nam đã tổ chức 184 kỳ thi đình, tùy từng triều đại, tùy cách chọn lựa, người đỗ đầu cuộc thi đình có thể được phong học vị là Trạng Nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, hay chỉ gọi là Đình Nguyên. Đình Nguyên tức là người đỗ đầu kỳ thi tổ chức tại sân điện nhà vua để được cấp bằng Tiến sĩ. Năm 1838 khi xem thi Hội gặp ngày mưa rét Vua Minh Mệnh sai lấy bếp lò sưởi ấm cho phòng thi, vua còn làm thơ tặng các vị thí sinh, trong bài thơ có câu:
Tuyết trung tống thán kim triêu hữu,
Thổ tận anh ba tác Trạng Nguyên
(Hôm nay tuyết lạnh đã cho than
Dốc hết tài ba lấy Trạng Nguyên...)
Đã chứng tỏ vua coi Đình Nguyên là Trạng Nguyên, có điều theo luật lệ nhà Nguyễn không phong học vị Trạng Nguyên trong thi đình.
Như Nguyễn Khuyến đỗ đầu cả 3 cuộc thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình cũng chỉ được gọi là Tam Nguyên.
Học vị của Nguyễn Khuyến cũng là Đệ nhị giáp (Hoàng Giáp) Tiến sĩ như Phan Trứ. Phan Trứ thi đỗ cử nhân năm Tân Mão 1831, năm sau vào thi đình đỗ Nhị Giáp Tiến sĩ – Đình Nguyên, đích thân vua Minh Mạng chấm thi đình. Hội đồng thi năm ấy gồm những bậc đại thần nổi tiếng nhất Triều Nguyễn như Trần Văn Năng, Thượng thư bộ lễ Phan Huy Thực, Tả tham tri bộ binh Lê Văn Đức, Tả tham tri bộ hộ Trương Đăng Quế...
Như vậy Phan Trứ là 1 trong 184 vị Đình Nguyên của Lịch sử khoa cử Việt Nam như các Trạng Nguyên Trần Tất Văn, Lê Ích Mộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm của Hải Phòng.
Triều Nguyễn Hải Phòng chỉ có 3 người đỗ đại khoa là: Phan Trứ, Lê Khắc Cẩn và Lê Huy Thái, hay chữ nổi tiếng như Lê Khắc Cẩn người thôn Hạnh Thị, xã An Thái, An Lão cũng chỉ đỗ Á Nguyên tức là người xếp thứ 2 sau Đình Nguyên.
Nói đến khoa bảng là nói đến các kỳ thi.
Triều Nguyễn từ năm 1831 là năm Phan Trứ đỗ cử nhân đến 1852 là năm Phan Trứ mất, có tổ chức 13 khoa thi, mỗi khoa trung bình tổ chức 5-6 trường thi trải dài từ Hà Nội, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Gia Định.
Trong thời gian 20 năm công tác của mình cũng là lúc triều đình tổ chức 12 khoa thi hương, Phan Trứ được cử ra làm chủ khảo 4 lần vào các khoa: 1843, 1847, 1848 và 1850. Công tác khảo thí thời phong kiến rất vất vả, mỗi trường thi có đến 5000 – 6000 thí sinh, ròng rã hàng tháng trời, 4 trường thi mà Phan Trứ làm chủ khảo đều là những trường thi lớn, trừ Gia Định còn 3 trường thi Hà Nội, Nghệ An, Thanh Hóa là những địa phương vốn là đất học nổi tiếng cả nước, nên số thí sinh rất đông. Đã có những vị đại thần bị giáng chức, đã có những vị quan trong Hội đồng thi bị trọng tội điển hình là Tiến sĩ Ngô Thế Vinh bị cách chức, đục tên khỏi bia tiến sĩ (tước bằng). Ngay những bậc đại thần danh giá như Phan Thanh Giản cũng chỉ làm chủ khảo đến lần thứ 2 đã bị lỗi, Nguyễn Văn Siêu (thần Siêu) bị tội trượng đánh đòn (may sau chỉ bị cách chức), Cao Bá Quát (thánh Quát) bị hạ ngục, trảm giam hậu. Riêng Phan Trứ làm chủ khảo đến 4 lần vẫn được triều đình tín nhiệm và khen thưởng.
(Nguồn: Hoàng Giáp Tiến sĩ Phan Trứ /TS. Lã Trọng Long//Báo Hải Phòng . - ngày18/08)

