Hân hoan ngày tiếp quản Hải Phòng
Sau thắng lợi giòn giã của quân và dân ta trên chiến trường Điện biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Giơ –ne-vơ, chấp nhận rút hẳn khỏi miền Bắc nước ta. Là một người lính thuộc Trung đoàn Thăng Long, Đại đoàn Đồng Bằng (tức Sư đoàn 320), ông Đào Văn Hải (hiện ở tại số nhà 324 phố Lý Thường Kiệt, phường Phạm Hồng Thái, quận Hồng Bàng) có cơ hội được trực tiếp tham gia tiếp quản Hải Phòng vào ngày 13-5-1955.
Ở tuổi 84 nhưng trong ký ức của ông Hải, những ngày tháng tiếp quản thành phố giữa rừng cờ hoa và rợp trời tiếng reo hò, hoan hô không ngớt của nhân dân thành phố mãi in sâu trong tâm trí. Ông hồi tưởng và kể lại: “Năm đó, tôi 25 tuổi, là tiểu đội trưởng tiểu đội trinh sát tình báo thuộc Tiểu đoàn Thanh Lũng, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320. Trước khi về tiếp quản thành phố, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ trinh sát, nắm tình hình tại Hải Phòng. Tôi về Hải Phòng và nằm vùng ở đó khoảng 2 tháng để thực hiện nhiệm vụ. Hải Phòng khi ấy là nơi tập trung mọi lực lượng của đoàn quân chiến bại. Mặc dù đã ký hiệp định Giơ-ne-vơ nhưng với bản chất phản động, ngoan cố, thực dân Pháp câu kết với đế quốc Mỹ tìm mọi cách phá hoại, làm hạn chế thắng lợi của ta.
Dưới sự lãnh đạo của Ban chỉ đạo khu 300 ngày và sự tham gia của Tỉnh ủy Kiến An, Thành ủy Hải Phòng, phong trào đấu tranh chống địch diễn ra sôi nổi, quyết liệt. Ở những vùng giải phóng, ta tổ chức mít-tinh lớn, biểu dương lực lượng. Khắp nơi dựng cổng chào, treo cờ, kết hoa rực rỡ. Ở những nơi địch tạm chiếm, ta tăng cường cán bộ và các đội võ trang tuyên truyền xuống từng cơ sở. Những nơi có điều kiện thì tổ chức mít-tinh cổ động, nơi không có điều kiện thì giải thích qua các đoàn thể, mạn đàm, phát tán tài liệu. Đi đôi với công tác tuyên truyền, ta tích cực xây dựng các đoàn thể cứu quốc và lực lượng dân quân tự vệ tại chỗ để làm nòng cốt trong cuộc đấu tranh chống các hành động vi phạm hiệp định của địch.
Theo nhiệm vụ cấp trên phân công, tôi thực hiện nắm tình hình ở một số vị trí chủ chốt như nhà máy xi măng, nhà máy điện, nhà máy nước, sân bay Cát Bi. Cùng với đó, tôi cũng tìm cách tiếp cận, lựa chọn những công nhân tiêu biểu để tập huấn, hướng dẫn đấu tranh, giữ lại máy móc, tài sản của nhà máy, không cho địch đem đi hay phá hoại. Dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự nội thành thành phố, chỉ sau thời gian ngắn, ta khôi phục cơ sở ở hầu hết xí nghiệp, đường phố và tổ chức được lực lượng tự vệ ở các xí nghiệp, nhà máy lớn trong nội thành như xí nghiệp cảng có 34 đồng chí tự vệ; nhà máy xi măng có 56 đồng chí; nhà máy đèn có 8 đồng chí, toa xe có 24 đồng chí…
Về tình hình địch, sau khi chính phủ Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ thừa nhận thất bại cay đắng trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, đội ngũ sĩ quan, binh lính địch nảy sinh tư tưởng hoang mang, chán chường. Nắm lấy thời cơ này, ta đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối, chính sách khoan hồng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ta. Toàn dân tham gia làm công tác địch vận, vừa đấu tranh đòi thi hành Hiệp định, vừa tiến công mạnh mẽ làm tan rã thêm hàng ngũ binh lính địch. Với lính ngụy, ta giương cao khẩu hiệu “đào ngũ về với gia đình làm ăn”, với lính Âu Phi là “hòa bình và hồi hương”. Nhân dân thường kéo đến các vị trí tập kết của quân địch hỏi tin tức, kêu khóc, đòi chồng, đòi con. Có cuộc, lực lượng nhân dân tập trung lên tới 3.000 người, kiên trì đấu tranh trong hằng tuần, hằng tháng, làm tan rã từng đại đội, tiểu đoàn của địch. Nhân dân và gia đình có người đi lính, bị bắt đi lính mang theo cơm, gạo tập trung chung quanh doanh trại địch hết ngày này sang ngày khác, đòi cho được chồng, con trở về mới chịu giải tán. Thắng lợi của công tác địch vận đã đánh thẳng vào tinh thần quân đội địch, góp phần làm tan rã khối ngụy quân của thực dân Pháp trên miền Bắc, lôi kéo được lực lượng lớn về nhân dân, kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh buộc địch phải thi hành Hiệp định.
Hoàn thành nhiệm vụ trinh sát, nắm tình hình trên địa bàn tiếp quản, tháng 5-1955, tôi cùng đơn vị hành quân về tiếp quản thành phố. Lực lượng Sư đoàn 320 chia thành 3 mũi chính tiến về Hải Phòng. Trong đó, Trung đoàn 48 chúng tôi hành quân theo hướng từ ga Tiền Trung (Hải Dương) đi theo đường 5 xuống thẳng Hải Phòng. Sau 1 ngày hành quân liên tục, chúng tôi về đến Quán Toan và tiếp tục hành quân vào đóng tại Nhà máy Xi măng đen. Sáng 13-5-1955, đơn vị chúng tôi hành quân qua cầu Hạ Lý, dọc theo đường Hoàng Văn Thụ rồi chia thành hai mũi, một đóng quân ở Sân bay Cát Bi, một đóng quân tại trại pháo Cầu Tre. Trên đường chúng tôi hành quân tiến về giải phóng thành phố, ở từng vị trí, lính Pháp trao lại quyền canh gác cho bộ đội rồi lầm lũi bước đi. Trong khi đó, bộ đội ta đi đến đâu, đường phố như nổ tung trong tiếng reo hò, hoan hô và rừng cờ, hoa đến đó. Nhà nhà mở rộng cửa, già trẻ, gái trai tràn xuống đường. Nhiều người chạy đến giữa hàng quân, ôm chầm lấy bộ đội, rối rít hỏi han tình hình con em mình, dúi vào tay bộ đội những bó hoa tươi mà nước mắt đầm đìa. Dù rất xúc động trước tình cảm của bà con nhưng chúng tôi duy trì nghiêm hàng quân, thực hiện nhiệm vụ hành quân, tiếp quản các vị trí theo quy đinh.
Đến địa điểm đóng quân, đơn vị chúng tôi nhanh chóng ổn định tình hình và triển khai lao động giúp đỡ nhân dân khôi phục sản xuất. Đến ngày 2-6-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Hải Phòng. Cùng với toàn thể quân và dân thành phố, tôi vinh dự được tận mắt ngắm Bác Hồ khi Người nói chuyện tại quảng trường Nhà hát thành phố. “Và đó cũng là niềm vinh dự lớn lao mà tôi không bao giờ quên trong suốt cuộc đời mình”.
(Nguồn: Hân hoan ngày tiếp quản Hải Phòng/Thành Lê// Báo Hải Phòng Online. – Ngày11/12)

