Đi B - một thời để nhớ
Vợ chồng thầy giáo Minh hạnh phúc bên nhau
Chiến tranh đã lùi xa nhưng hành trình vượt dãy Trường Sơn chi viện cho miền Nam chống Mỹ cứu nước, tình đồng đội, đồng chí, tình yêu đôi lứa thăng hoa trong những tháng năm bom đạn, sống chết cận kề vẫn vẹn nguyên trong tâm khảm những người cán bộ đi B năm xưa. Đối với họ, đó là những tháng năm không thể nào quên, là một thời để nhớ, để tự hào...
Niềm tự hào bất diệt:
Ngày 5-3-1969, thầy giáo Phạm Đình Minh (nguyên Hiệu trưởng Trường THPT Ngô Quyền), sinh 1942, ở phường Dư Hàng Kênh, Lê Chân, tham gia vào đoàn cán bộ Giáo dục - Y tế đi B. Trước khi đi B, thầy Minh đã có 6 năm công tác, giảng dạy tại các trường Cấp 3, Trường Sư phạm Hải Dương. Thầy đã cùng bao đồng nghiệp khác trên khắp mọi miền quê hương của tổ quốc dũng cảm “xếp bút nghiên”, tình nguyện viết đơn xin đi B.
“Chúng tôi muốn góp một phần sức lực của mình vào công cuộc giải phóng miền Nam. Tuy là nhà giáo, là các y, bác sĩ, vũ khí của chúng tôi là cây bút, mũi tiêm, nhưng chúng tôi đều xác định rõ vào chiến trường làm nhiệm vụ của người lính xung trận. Dù biết cái chết luôn cận kề, sự hi sinh, gian khổ là điều không thể tránh khỏi nhưng không một ai đắn đo", thầy Minh chia sẻ.
Và thế là ngày 5-3-1969, sau một thời gian được học tập, huấn luyện, 230 nhà giáo và 20 y, bác sĩ đã được Bộ Giáo dục, Ban tổ chức trung ương tin tưởng, lựa chọn, giao trọng trách, nhiệm vụ vào Nam công tác.
Là người trực tiếp làm nhiệm vụ tiếp nhận, rà soát thông tin hồ sơ, lưu giữ những lá đơn tình nguyện và may mắn được gặp gỡ, trò chuyện với rất nhiều cán bộ đi B, chị Phạm Thị Thu Hương - Chi cục Trưởng chi cục Văn thư - Lưu trữ thành phố không giấu được niềm cảm phục, xúc động chia sẻ: “Cảm động lắm! Nhờ đó mà tôi mới thực sự cảm nhận, thấm thía được những hoài bão, lý tưởng lớn lao, sục sôi trong trái tim, khối óc cha anh thời đó.
Đối với cán bộ, được đi B thực sự là một niềm kiêu hãnh, tự hào của cả một thế hệ. Ý chí quyết tâm đánh đuổi quân thù đã thúc giục họ lên đường, sẵn sàng cống hiến, hi sinh cho lý tưởng...”, chị Hương xúc động chia sẻ.
Tình người cao đẹp:
Từ lý tưởng cao đẹp ấy, hành trình vượt dải Trường Sơn làm nhiệm vụ của đội ngũ những cán bộ đi B đã trở thành ký ức không thể nào quên, là một thời để nhớ, thương, tự hào ghi dấu tình người, tình yêu lứa đôi đẹp đẽ. Câu chuyện tình thời chiến của vợ chồng thầy giáo Minh là một minh chứng.
Năm 1969, vừa rời ghế nhà trường, nữ y sĩ Hoàng Thị Thăng, sinh 1950, quê ở Tân Tiến, Bắc Giang, đã làm đơn tình nguyện tham gia vào đoàn cán bộ Giáo dục - Y tế đi B cùng đợt với thầy giáo Minh.
Những ngày tháng tham gia khóa đào tạo, huấn luyện trước khi vượt tây Trường Sơn, 2 người đã để lại trong nhau những ấn tượng đặc biệt. Thầy giáo trẻ gặp nữ y sĩ vừa rời ghế nhà trường với dánh hình mảnh mai, xinh đẹp, tính tình thùy mị, nết na mà “cả gan” đi B đã đem lòng cảm mến. Còn nữ y sĩ khi gặp thầy giáo thư sinh, có chất nghệ sĩ, biết đệm đàn rất hay đã đem lòng nhớ thương.
Suốt dọc hành trình vượt dải Trường Sơn, tuy chung đoàn nhưng do khác chi, khác tổ, 2 người chỉ "để ý" nhau qua các tuyến đường hành quân. Được gần 1 tháng thì y sĩ Thăng bị sốt rét đành chia tay đoàn, ở lại đi sau. 2 người biệt tin nhau từ đấy. Đến năm 1970, khi cả 2 đã vượt dãy Trường Sơn nhận nhiệm vụ mới, trong một buổi đang giảng dạy tại trường Nguyễn Văn Trỗi cho con em cán bô miền Nam, thầy Minh bị đau thận, phải đi cấp cứu. Và cơn đau định mệnh ấy đã giúp thầy giáo Minh được gặp lại người con gái thầm yêu trộm nhớ bấy nay. Thầy Minh được đưa vào đúng bệnh viện y sĩ Thăng đang công tác. 2 người gặp lại nhau mừng mừng, tủi tủi... Đêm trước ngày ra viện, thầy giáo Minh đã quyết định viết thư bày tỏ lòng mình gửi y sĩ Thăng. Tình yêu của họ cứ lớn dần lên sau những lần gặp gỡ vội vàng, sau những tháng năm xa cách, những lần thót tim khi được tin nhau bị trúng đạn súng quân thù...
Giờ đây, tình yêu của họ là quả ngọt với một gia đình êm ấm, hạnh phúc, 3 người con (2 gái, 1 trai) thì 1 người đã nối nghiệp dạy học của cha, 2 người con khác đang công tác trong lực lượng vũ trang...
Chuyện trò với chúng tôi, hồi tưởng lại những kỷ niệm về tình đồng đội, đồng chí, không giấu được niềm xót thương, bác Hoàng Thị Thăng bùi ngùi chia sẻ: "Ngày đi B, là “em út” nên tôi được anh chị trong đoàn yêu mến, ai nấy đều quan tâm, chăm sóc, đặc biệt trong số đó có chị Mai Thị Tám, người Tiên Lãng, Hải Phòng. Chị Tám thân thiết, gắn bó, yêu thương tôi như em ruột. Hành trình vượt dải Trường Sơn, thác cao, dốc thẳm, có những lúc tưởng chừng không thể bước tiếp được nữa thì chị Tám luôn ở bên cạnh nâng đỡ tôi tiếp tục cuộc hành trình. Chúng tôi ăn cùng ăn, đi cùng đi, ngủ thì mắc vọng nằm sát cạnh nhau, dùng chung một cái tăng"...
Ngày 2 chị em Thăng, Tám vượt tây Trường Sơn vào đến miền Nam thì cũng là lúc 2 người phải chia tay nhau, nhận nhiệm vụ mới. Y sĩ Thăng được giao nhiệm vụ điều trị cho cán bộ trung, cao cấp tại Bệnh viện khu R. Tết năm 1969, nhớ em nên chị Tám đã đến bệnh viện ăn Tết cùng y sĩ Thăng. Đêm 30 Tết năm đó, 2 chị em đã thức suốt đêm để trực bệnh viện và trò chuyện. “Nào ngờ, đó là lần cuối cùng tôi được gặp chị. Ra Tết, chị Tám đã xung phong xuống vùng Long An, vào sâu trong chiến trường. Chị đến gặp mặt tôi lần cuối trước khi lên đường. Hôm đó, chị đã cố chờ rất lâu để tạm biệt tôi nhưng tôi lại đi công tác không có nhà... Biệt tin chị một thời gian, sau trận càn của Mỹ, tôi nhận được tin chị Tám đã hi sinh trong khi làm nhiệm vụ. Đêm đó tôi khóc suốt đêm thương chị, tiếc nuối vô cùng vì hôm chị đến tìm tôi mà tôi không về kịp...”, bác Thăng ngậm ngùi chia sẻ.
Bác còn kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về cuộc gặp gỡ định mệnh của nữ dược sĩ tên Thanh và chàng y sĩ tên Nghị người Phú Thọ, tại trạm Nguyễn Văn Trỗi (một trạm dừng chân trên tuyến đường Trường Sơn).
Dược sĩ Thanh và y sĩ Nghị yêu nhau từ khi 2 người còn ở quê nhà. Theo tiếng gọi non sông, y sĩ Nghị lên đường làm nhiệm vụ tại Bệnh viện trạm Nguyễn Văn Trỗi, sau đó dược sĩ Thanh cũng theo đoàn dân chính vào miền Nam công tác. 2 người gặp lại nhau trong trường hợp dược sĩ Thanh bị sốt rét cấp tính, được đoàn chuyển vào nằm điều trị tại bệnh viên nơi y sĩ Nghị công tác. 2 người yêu nhau sau bao tháng ngày xa cách được gặp nhau giữa nơi rừng thiêng nước độc, bom đạn kẻ thù bủa vây. “Chưa được hưởng niềm vui ngày tái ngộ thì dược sĩ Thanh đã ra đi. Sau đó một thời gian tôi nhận được tin y sĩ Nghị trúng bom, hi sinh khi anh đang làm nhiệm vụ...”, bác Thăng chia sẻ.
Tình đồng đội, đồng chí và tình yêu lứa đôi được nảy nở, thăng hoa trong chiến
tranh không chỉ là những ký ức ăn sâu trong máu thịt của những người còn sống mà những tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy sẽ được lớp lớp thế hệ con cháu hôm nay, mai sau mãi mãi lưu truyền...
(Nguồn: Đi B - một thời để nhớ/Khánh Chi??Báo An ninh Hải Phòng Online. - ngày 19/1)

